Đôi điều về chuyện làm quan ngày xưa...

Ngày xưa, bố tôi được gia đình nuôi học chữ Nho từ nhỏ (Thầy dạy gia sư), hơn 10 năm mới đọc thông, viết thạo. Tốn kém bao nhiêu tiền bạc nuôi thầy và công sức bỏ ra. Bố còn được học ở trường Tây, có bằng Sơ học yếu lược.
Hi vọng sau này là “ông giáo dạy chữ Nho”. Nhưng số của bố tôi không được làm ông giáo chữ Nho vì sau 1945 không ai học chữ Nho nữa! Nhưng vốn kiến thức đã học và đọc sách, bố là “bí thư chi bộ gia đình”, là người thầy của các con. Bố đã kể cho các con nghe chuyện đông, tây, kim, cổ nên tôi học được nhiều kiến thức, kĩ năng về cuộc sống.

“Số phận con người” là câu nói hằng ngày của Nhân dân. Thường nói ngắn gọn là: “Số” anh ấy có thế thôi, nhất là những người chẳng may bị chết đột ngột do tai nạn giao thông, hoặc bệnh hiểm nghèo. Thường nghe: Số làm thầy, số làm quan. “Con vua thì lại làm vua/Con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Đúng là mỗi người đều có số phận. Nhưng “số” làm quan chỉ là hiếm hoi, mà do những yếu tố khác quyết định, nhất là do giáo dục mà nên!?

“Con quan thì lại làm quan”, là một lời khen tốt, là nói đến sự tiếp nối “cha truyền, con nối”. Nhưng có người lại ám chỉ, hiểu theo nghĩa ít tốt hoặc xấu xa. Nếu hiểu thấu đáo, sâu sắc thì vấn đề này rất ý nghĩa trong nhận thức và tác dụng vào việc nuôi dạy con cháu.

Đôi điều về chuyện làm quan ngày xưa...

Các nước phương Tây có nền kinh tế rất phát triển, đã trải qua hàng trăm năm. Trải qua thời kì phong kiến và thời kì tư bản chủ nghĩa nên hình thành một tầng lớp tinh hoa, thường gọi là giới “Quý tộc”. Một dòng họ, một gia đình, cá nhân được xã hội công nhận, xếp vào giới Quý tộc là sự kế thừa và phát triển của nhiều đời người, nhiều thế hệ. Giới Quý tộc là những người làm quan, từ địa phương làng xã, đến quốc gia. Như vậy là con quan thì lại làm quan!? Song, không phải là ai cứ sinh ra từ gia đình, dòng họ Quý tộc mà lên quan! Họ phải học hành, đào tạo bài bản có chất lượng, trải qua thực hành, thực tế khắt khe của sự cạnh tranh quyết liệt trong nền kinh tế thị trường khốc liệt và sở hữu tư nhân; ngược lại là bị đào thải. Họ phải đủ những “điều kiện nhất định” thì mới được giới Quý tộc cho đứng vào tầng lớp đó. Tất nhiên, “điều kiện nhất định” là hội tụ đủ tối thiểu ba yếu tố: Kinh tế giàu có, trí tuệ thông minh và truyền thống khoa bảng.

Ngày xưa, dân ta dùng chữ Hán rất khó học, khó nhớ. Bởi thế, trên 90% dân số là mù chữ. Rất ít người biết chữ, trong số đó một số người cực kì thông minh, kinh tế giàu có, dòng dõi khoa bảng mới thi cử đỗ đạt và làm quan. Qua đó ta thấy, để trở thành quan thì phải thi đỗ kì thi Hương, hoặc thi Hội, hoặc thi Đình, từ thấp đến cao, từ huyện, tỉnh và Quốc gia. Các kì thi được diễn ra rất nghiêm túc, thí sinh ngồi trong lều chõng, giữa bãi đất trống vắng, mưa ướt, nắng nóng. Ai đỗ ở kì thi nào đều được “Vinh quy bái tổ”, được bổ nhiệm làm quan tương xứng với kì thi đó. Cho nên ngày xưa quan làm tốt chức trách nhiệm vụ của mình được dân kính trọng. Có thời kì, có người hay nói: Quan ngu dốt, tham lam, máu dê... là thiếu khách quan, chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh!”.

Muốn đỗ đạt thành quan thì phải học xuất sắc, cần hội đủ các yếu tố: Trí tuệ thông minh (ở bộ não được di truyền theo gen), kinh tế giàu có và truyền thống khoa bảng của gia đình, dòng họ. Trong ba yếu tố đó, thì trí tuệ hoặc truyền thống khoa bảng là quyết định. Kinh tế chỉ là vật ngoại thân, nay còn mai mất. Thực tế ở chế độ phong kiến Việt Nam cho thấy, mỗi khi thay đổi triều chính thì con cái nhà vua bị thất thế, tài sản bị tịch thu hết sạch nhưng trí tuệ, dòng máu khoa bảng thì không ai tước đoạt được. Bởi thế, sau một thời gian lưu lạc, thậm chí sống ở nước ngoài, họ lại giàu sang phú quý, thậm chí lại làm quan.

Ngày tôi còn nhỏ, được nghe bố kể câu chuyện làm quan:

- Có một vụ xử kiện, bà Tý bị mất gà. Ông quan huyện yêu cầu tất cả dân làng đến đình làng. Quan bắt bà Tý đứng hầu tòa, vì tội chửi bới dân làng đã bắt trộm hai con gà của bà. Ông cho dân chúng có mặt, mỗi người lên tát hai cái thật đau vào mặt bà Tý vì tội chửi bậy. Lần lượt từng người lên tát bà Tý. Ông quan cùng lính dõng theo dõi, thấy mọi người tát rất nhẹ, chỉ có ông Cột và vợ là bà Kèo, tát hai cái rất mạnh, còn chửi rủa bà Tý. Cuối cùng ông quan tuyên bố: Bà Tý là người có mất gà. Hai vợ chồng ông Cột và bà Kèo, làng xóm liền kề là thủ phạm trộm gà bà Tý. Dân làng kính nể ông quan học giỏi, đã xử rất đúng người đúng tội và vận dụng sáng tạo trong công việc.

Bố kể tiếp:Ngày xưa, nhiều trạng nguyên của Việt Nam được Vua cử đi làm sứ giả ở nước ngoài. Sứ giả ta đã vượt qua những thử thách thâm nho, gian ác, đến mức chết người của “Vua nước đó” là nhờ vào trí tuệ thông minh. Chuyện rằng:

Vua mở tiệc chiêu đãi sứ giả các nước chư hầu, rất trang trọng. Đường đi vào đại lễ được trải thảm đỏ. Nhiều sứ giả bị chết vì đi trên thảm đỏ bị rơi xuống hố sâu, có cắm chông nhọn tẩm thuốc độc. Vua cho rằng: Chết là do ngu dốt vì dám đi trên thảm đỏ chỉ dành cho Vua. Không hiểu gì về lễ nghi nhà Vua. Sứ giả Việt rất giỏi nên bình an. Vua khen sứ giả Việt: Đã đi theo phía ngoài tấm thảm là chuẩn mực về nghi lễ, là giỏi về học và hành. Sau vụ này, Vua vẫn lo sợ người tài sẽ là mối nguy hiểm cho nước họ, quyết tâm giết chết người tài giỏi này nên tiếp tục thử thách sứ giả Việt. Trước mặt các quan văn võ, Vua cho sứ giả Việt bốc thăm một trong hai phiếu dán kín. Nếu bốc được phiếu ghi chữ “chết”là bị chém đầu (Vua làm thật). Có thể sẵn sàng chết vì hoà bình của dân tộc Việt Nam, nhưng chính nhờ sự học siêu giỏi mà sứ giả ta đã thoát chết. Ông bốc lên một phiếu và nhanh chóng nuốt chửng vào bụng mình, rồi nói: Bẩm báo, nhà Vua cho người mở phiếu còn lại, nếu ghi chữ “chết” thì phiếu mà kẻ hèn mọn đã bốc được ghi chữ “sống”. Vua cùng các quan văn võ ngậm đắng nuốt cay vì thua sứ giả này. “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”. Sứ giả ta rất giỏi, biết chắc là cả hai phiếu đều ghi chữ “chết”.

Qua những câu chuyện trên, cho thấy việc đào tạo làm quan là cực kì quan trọng cho quê hương,đất nước, dân tộc. Qua việc đi trên thảm đỏ, rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc sống là: Việc gì bất thường là phải cảnh giác, lành ít dữ nhiều. Thấy con thu nhập nhiều tiền bất thường là bố mẹ lo, cần xem xét lại...Thấy lãi suất tiền gửi cao là tiềm ẩn nguy cơ bị mất cả gốc lẫn lãi. Thấy quà tặng quý giá là bẫy dễ chết người. Của cho là của nợ...

Thời gian tôi công tác ở Trường Cao đẳng Sư phạm, thường được làm giáo viên chủ nhiệm lớp. Qua xem xét lí lịch sinh viên, tôi nhận thấy: Sinh viên hầu hết được xuất thân từ một gia đình có khả năng về kinh tế, truyền thống học hành và bố mẹ đang là giáo viên, cán bộ nhà nước, sĩ quan quân đội,… Tôi đã rút ra là: Sinh viên có đủ ba yếu tố đã nói ở trên. Qua đó càng thấy việc nuôi con ăn học để thi cử đỗ đạt và trở thành thầy cô giáo là rất tốn kém tiền của, công sức.Rồi ngược dòng thời gian về những năm tháng tôi học đại học thì hầu hết sinh viên lúc đó cũng hội tụ đủ ba yếu tố trên. Tôi được họcvới một số anh chị là người dân tộc thiểu số vùng núi khó khăn,nên biết: Gia đình họ giàu có, người nhà đều làm quan lang, làm sếp, nhiều đời và truyền thống giáo dục của dòng họ. Sau vài năm tốt nghiệp đại học, họ được làm quan, từ thấp đến cao! Một số dòng họ trong làng tôi có kinh tế khá giả, di truyền về gen và truyền thống khoa bảng nên các thế hệ tiếp nối nhau đều được học hành tốt và trưởng thành. Bản thân,gia đình tôi cũng không là ngoại lệ, cũng phải có ba yếu tố đó.

Ngày bé tôi thường sang chơi nhà ngoại. Tôi hỏi ông: “Ngày xưa, quan tốt hay quan xấu?”. Đã từng là Lý trưởng,ông ngoại bảo tôi: “Hầu hết quan là người tốt nhưng cũng có số ít quan xấu”. Ông cho biết công thức làm quan: “Nghe nhiều, nói ít, ăn vừa phải”. Rồi ông kể cho tôi nghe câu chuyện sau:

Ngày xa xưa, có ông quan Ếch chất vấnông quan Ốc:

- Cậu vừa xấu, vừa chậm, lại học hành kém hơn tớ, bằng cấp toàn đi mua. Nhưng sao cậu cứ được thăng quan, tiến chức ầm ầm thế? Còn tớ cứ “ngồi đáy giếng” mãi!?

- Quan Ốc thủng thẳng: Cậu rất đẹp trai, bẻm mép, nhanh nhẹn, lưng gù, thịt bắp. Chị em nhìn thấy cặp đùi của cậu thì chết mê, chết mệt luôn... Nhưng con đường quan lộ của cậu không thể thẳng tiến, khó làm quan to được. Vì 5 lí do:Thứ nhất, chỉ ngồi đáy giếng nên cậu hay coi Trời bằng vung.Thứ hai, làm gì cũng nhảy chồm chồm lên, không có tính toán mưu sâu kế hiểm gì, kể cả mưu hèn kế bẩn.Thứ ba, cậu chết ở cái miệng, lúc nào cũng ồm ộp, toang toác.

Sẩy tay còn đỡ, sẩy miệng thì toi! Thứ tư, cả hai con mắt chết tiệt của cậu nữa, cứ trố lên thao láo. Khi các vị quan trên có làm điều gì sai trái, khuất tất, cậu cứ giương mắt lên nhìn. Quan trên lại tưởng cậu đang soi mói để tố cáo thì thằng nào nó chịu được?! Thứ năm,cậu cùng họ hàng với quan Cóc nên thỉnh thoảng hay kéo nhau đi kiện. Mà quan trên thì cực ghét, “thù lâu nhớ dai” những kẻ hay đâm đơn kiện tụng, tố cáo lung tung về những việc làm “khuất tất” của nhà quan! Thử hỏi, chỉ với 5 năm cái tội “chết người” trên thì thằng chó nào nó còn dám “nâng đỡ trong sáng” cậu nữa...

Quan Ếch tròn mắt, dỏng tai lên nghe, rồi hỏi quan Ốc: Cậu cho tớ biết kinh nghiệm làm quan, nhất là con đường thăng tiến.

Quan Ốc tự kiêu nói: Ốc tớ tuy xấu xí, chậm chạp, học kém, bằng cấp chắp vá, kể cả là bằng cấp đi mua, rồi hồ sơ thì khai gian năm sinh nhưng bù lại, tớ luôn sống có nguyên tắc. Đó là: Thứ nhất, bình thường luôn ngậm miệng, biết giữ mồm giữ miệng... “Ngậm miệng ăn tiền”, cậu nghe cổ nhân nói vậy chưa? Người ta mất ba năm để học nói, nhưng phải mất vài chục năm, hoặc cả đời để học “cách im lặng” đấy! Thứ hai, đi đâu cũng đi bằng miệng (uốn ba tấc lưỡi) và phải biết “bôi trơn” cẩn thận. Cậu có nghe câu: Ốc bò trút nhớt à? Đấy là tớ đang “bôi trơn” con đường quan lộ đấy. Thứ ba, khi có “biến” phải biết chui ngay vào cái vỏ bọc và ngậm miệng lại nghe ngóng hoặc lặn sâu không sủi tăm. Nghe chửa Ếch!?”.

Kể xong, ông cười: Làm Lý trưởng được hai năm là ông xin nghỉ trước thời hạn, cho không phải là quan Ốc, là quan Ếch! Ông về làm phó thường dân, làm ruộng, đơm đó, nuôi gà chọi, chơi chó săn và thỉnh bạn bè đến nhắm rượu, thưởng thức món ngon!

Tôi còn hỏi ông: Con quan thì lại làm quan, có phải không ông?

Ông mỉm cười: Đúng rồi nhưng chưa hẳn là vậy. Ông nuôi gà chọi nhiều năm nhận thấy: “Gà chọi tuy có gen, có nòi giống tốt, có thương hiệu cao nhưng quan trọng nhất là sự nuôi dưỡng, chăm sóc, huấn luyện nó mới thành gà chọi tốt được”. Con nhà quan phải được giáo dục tốt mới thành quan tốt được! Cháu lớn lên đi dạy học là mang phúc đức đến cho mọi người, luôn làm điều tốt lành.

Chuyện làm quan ngày xưa… mãi mãi là bài học quý giá cho tôi vững bước vào cuộc sống khó khăn, vất vả để thành con người tốt.

ThS Đặng Văn Hương

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám là nơi các Nho sinh, sĩ phu nước ta từ đầu thế kỉ thứ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX làm giàu học vấn. Đây chính là cơ quan quản lí giáo dục triều Nguyễn và là học phủ tối cao của triều đại phong kiến cuối cùng này…
Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Liệt sĩ nhà giáo có ở hầu hết các vùng, miền của Tổ quốc. Theo thống kê vào năm 2012, trong ngành Giáo dục có 2.219 liệt sĩ nhà giáo. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có hơn 4.000 nhà giáo trên khắp mọi miền đất nước đã lên đường vào miền Nam vừa dạy học, vừa cầm súng chiến đấu và đã có 621 nhà giáo đã anh dũng hi sinh.
Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng bậc nhất, là cội nguồn sức mạnh để đất nước vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua thiên tai dịch bệnh để vững bước tiến lên...
Đạo thầy trò

Đạo thầy trò

Xã hội nào nghề giáo cũng luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Câu ca dao có từ ngàn xưa: Mồng một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy là nét văn hóa về cách sống, cư xử mà ông cha ta muốn nhắc nhở con cháu.
Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ngày 5/6/1911, anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Để có được hoài bão vĩ đại này, vai trò của thầy Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), thầy Vương Thúc Qúy (1862-1907), thầy Lê Văn Miến (1874-1943) đối với Người rất quan trọng.

Tin khác

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”
Trong xã hội Việt Nam, người thầy có vị trí đặc biệt, nghề dạy học được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Sinh con và nuôi dưỡng con cái là công ơn trời bể của cha mẹ, nhưng dạy trẻ chóng lớn để trở thành người không chỉ biết chữ mà còn có phẩm cách tốt đẹp, gắn tình yêu thương trong gia đình với tình yêu nước là công lao to lớn của người thầy...

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” viết cho báo Sự thật (Pravda) của Liên Xô số ra ngày 1/11/1967, nhân kỉ niệm lần thứ 50 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, Nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của Nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc”...

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước
Tháng Giêng năm 1924, từ Pa ris đến Mátxcơva, Bác Hồ vào viếng linh cữu Lênin, người bạn vĩ đại của Nhân dân các nước thuộc địa.

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày thành lập đến nay, Quân đội ta ngày càng trưởng thành, đội ngũ ngày càng vững mạnh, là đội quân tiên phong luôn giương cao ngọn cờ “Bách chiến bách thắng”. Một trong những yếu tố tạo nên điều kì diệu đó chính là thực hiện tốt mối quan hệ cá nước, máu thịt đoàn kết quân-dân.

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Ngược dòng thời gian, 63 năm đã đi qua, kể từ ngày “Đường Hồ Chí Minh trên biển” chính thức đi vào hoạt động và lập nên nhiều kì tích của một con đường huyền thoại, khẳng định bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh Nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trong đó, quê hương Bến Tre tự hào là nơi “khai sơn, phá thạch” với những con người đầu tiên rẽ sóng, mở ra con đường huyền thoại đó…

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời vào tháng 10/1947, với bút danh X.Y.Z. Đây là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền, là “cẩm nang” cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng
Cùng với Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3) dành để tôn vinh người phụ nữ, Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) được kỉ niệm để nêu bật vai trò quan trọng của một nửa thế giới, kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực để bảo đảm tương lai của các em, phát huy sức mạnh của các trẻ em gái trong quá trình xây dựng một thế giới bền vững…

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”.

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”
Đó là tiếng nói của Nhân dân ta dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai tiếng mộc mạc, ngắn gọn mà hàm chứa cả nhận thức sâu sắc qua thực tiễn và tình cảm sâu đậm của trái tim hàng chục triệu người Việt Nam…

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ
Trong suốt cuộc đời mưu sống và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như làm phụ bếp trên tầu buôn, làm thợ sửa ảnh, sống bất hợp pháp ở một nước tư bản, hoạt động cách mạng bí mật trong nước cho đến khi làm chủ tịch nước ta, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống như khi còn khó khăn, thiếu thốn...

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời Các Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi” và lời V.I.Lênin: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”. Kết quả phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
Công tác tham mưu của đội ngũ cán bộ các cấp đóng vai trò then chốt để tổ chức Đảng, người lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, hiện nay có hiện tượng một số cán bộ đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm, triệt tiêu sức sáng tạo, nhiệt huyết và lòng can đảm trong công tác.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi
Đã tròn 70 năm trôi qua, nhưng cứ đến ngày 10/10 hằng năm, ngày Giải phóng Thủ đô, cả gia đình tôi cảm nhận vô cùng hạnh phúc, vì Thủ đô giải phóng tôi được về Hà Nội và mới có được một niềm vinh dự lớn lao nhất trong cuộc đời ở đây.

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Trong tác phẩm “Dân vận” viết ngày 15/10/1949, đăng trên Báo Sự thật số 120, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
Xem thêm
Phiên bản di động