Đấu tranh phản bác cách nhìn trái về Cách mạng Tháng Tám
Nghiên cứu - Trao đổi 12/08/2024 14:21
Có hay không “khoảng trống quyền lực”?
Nhà sử học người Na Uy Stein Tonnesson luận giải trong cuốn “Cách mạng Việt Nam 1945- Roosevelt, Hồ Chí Minh và de Gaulle trong một thế giới chiến tranh” xuất bản năm 1991 như sau: “Khoảng trống quyền lực có thể được mô tả cụ thể hơn là sự vắng mặt của người Pháp và quân Đồng minh, sự thiếu quyết đoán của người Nhật trong việc duy trì sự cai trị cho đến khi quân Đồng minh tới, và sự bất lực của giới quan lại cùng chính quyền của họ trong việc tự phục vụ quyền lợi của họ” và “Bằng việc tạo ra khoảng trống quyền lực các cường quốc đã làm đảo lộn toàn bộ tình hình và do đó đã “mời” Việt Minh giành chính quyền” . Kể từ đó, quan điểm của nhà sử học này đã được nhiều người dựa vào với mục đích phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta và hạ thấp ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nhà văn, nhà báo người Mỹ Lady Borton, khi trao đổi với các nhà nghiên cứu Việt Nam tại Hội thảo khoa học quốc tế “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”, diễn ra tại Hà Nội vào tháng 5/2010, đã nhìn nhận ngược lại với quan điểm của nhà sử học người Na Uy Stein Tonnesson. Nhà văn, nhà báo người Mỹ Lady Borton nhận định: “Khi Nhân dân Việt Nam nổi dậy giành chính quyền, các lực lượng chính trị và quân sự tại đây vẫn còn nguyên và tiếp tục những cố gắng của mình”.
Mít-tinh tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu |
Trên thực tế, phát xít Nhật tại Việt Nam lúc đó có đến 90.000 người và được trang bị đầy đủ khí giới. Chúng cũng đã chứng tỏ sự thiện chiến khi đã đánh bại quân Pháp trên toàn cõi Đông Dương chỉ trong một ngày (9/3/1945). Sau khi nước Nhật đầu hàng Đồng minh (15/8/1945), quân Nhật ở Đông Dương nhận “nhiệm vụ” duy trì trật tự trước khi bị giải giáp. Bởi vậy, cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước tháng 8/1945 cũng vấp phải sự kháng cự của Nhật.
Ngày 17/8/1945, ở Tuyên Quang, Việt Nam Giải phóng quân tiến công doanh trại quân Nhật. Trước sức tiến công mãnh liệt của Việt Nam Giải phóng quân và sức uy hiếp mạnh mẽ của Nhân dân khởi nghĩa, quân Nhật phải xin đàm phán nhưng khi được tin có một cánh quân của chúng đang từ Hà Giang kéo về gần tới nơi, quân Nhật lại trở mặt. Các chiến sĩ Việt Nam Giải phóng quân và tự vệ công nhân lập tức tiếp tục cuộc tiến công, mở nhiều đợt xung phong mãnh liệt. Đến ngày 21/8/1945, quân Nhật rút hết về Hà Nội.
Ngày 20/8/1945, một đơn vị Việt Nam Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy bao vây, tấn công vào các vị trí do quân Nhật chiếm giữ ở thị xã Thái Nguyên. Trước sức mạnh của cao trào cách mạng của quân và dân Thái Nguyên, quân Nhật buộc phải chấp nhận các điều kiện do Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng đưa ra để sáng ngày 26/8/1945 được rút về Hà Nội.
Tại Hà Nội có đến 10.000 lính Nhật đồn trú. Trong đó, Trại Bảo an binh trên phố Hàng Bài ở Hà Nội là nơi hàng nghìn lính Bảo an Nhật đồn trú. Quần chúng Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã kéo vào đánh chiếm Trại Bảo an binh vào ngày 19/8/1945. Nhận được tin, Bộ chỉ huy quân đội Nhật đã cho xe tăng và hàng trăm lính đến bao vây, yêu cầu ta nộp vũ khí, giải tán, giao trại cho Nhật. Căn cứ vào chủ trương của Ủy ban Quân sự cách mạng đối với quân Nhật, ta đã mềm dẻo thuyết phục quân Nhật, nói cho chúng rõ Nhật Hoàng đã đầu hàng Đồng minh, nếu chúng không can thiệp vào cuộc khởi nghĩa của ta thì ta cũng để cho chúng yên ổn chờ ngày về nước. Ngược lại, nếu chúng bắn vào quần chúng cách mạng thì ta sẵn sàng dùng vũ lực chống lại. Xe tăng và quân Nhật sau đó phải rút lui. Sau cuộc thương thảo đó, Nhật phải công nhận Việt Minh là đại diện của Việt Nam. Sau đó, việc này được xác nhận bởi bức điện văn của Đại sứ Nhật gửi về Tokyo: “Chiều ngày 19, Đại sứ đã “được mời” đến dự cuộc gặp với các lãnh đạo Etsumei (Việt Minh) và đã tham gia bàn bạc với những người đó, được coi như là các nhà chức trách chính thức” .
Tại Huế, sau khi đảo chính Pháp, Nhật có đến 4.500 quân thiện chiến, vũ khí hậu cần đầy đủ do tên tướng Yokoyama Masayuki chỉ huy sẵn sàng đáp áp cách mạng. Bởi Tướng tư lệnh Nhật đã nhận được chỉ thị của Tokyo phải giữ ngôi cho Bảo Đại, đã bàn với Bảo Đại và Trần Trọng Kim như sau: “Mặc dù nước Nhật đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại đây vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho tới khi quân đội Đồng minh đến tiếp thu. Xin ngài hãy làm văn thư yêu cầu để chúng tôi tái lập trật tự”. Trần Trọng Kim không muốn rơi chính quyền vào tay Việt Minh, như tự thú nhận: “Trong tình thế nguy cấp như thế, ở Huế còn có người bàn sự chống cự” . Tuy nhiên ngày 23/8/1945, chính quyền ở Huế đã về tay Nhân dân. Bởi lẽ, tại thời điểm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Minh ở Huế đã lôi kéo được một số nhân sĩ yêu nước của “Hội Tân Việt Nam” (một tổ chức thân Nhật), lực lượng thanh niên Phan Anh, lính khố vàng, lính Bảo an cùng hàng chục vạn Nhân dân để tiến tới tổng khởi nghĩa. Trước sức mạnh của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, Bảo Đại chấp nhận thoái vị, giải tán nội các Trần Trọng Kim.
Bên cạnh đó, cho đến ngày 23/8/1945, chính phủ thân Nhật do Trần Trọng Kim đứng đầu (thành lập từ ngày 17/4/1945) vẫn tồn tại, hoạt động và ra sức kìm chế Việt Minh. Ở Hà Nội, ngày 18/8/1945, với tư cách đại diện chính phủ Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn vẫn gặp đại diện Ủy ban Khởi nghĩa đề nghị hoãn cuộc khởi nghĩa lại, và đề nghị: “Việt Minh các ông cứ nắm tất cả các vùng nông thôn, nhưng nên để Chính phủ tiếp tục quản lí các thành phố lớn, cốt để có danh nghĩa mà nói chuyện với Đồng minh…” . Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát: “Giao dịch với Đồng minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả” . Thậm chí Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim còn có ý định lôi kéo Việt Minh nhập vào chính phủ của chúng và ngừng các hoạt động chống Nhật nhưng đã bị phía Việt Minh bác bỏ .
Vai trò của Đảng ta đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Ngày 9/8/1945, quân đội Liên Xô từ 4 hướng ồ ạt tấn công Đạo quân Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu (Đông Bắc Trung Quốc). Trong khi đó, Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô cũng đổ quân vào Bắc Triều Tiên, tấn công miền Nam đảo Sakhalin và quần đảo Kurin. Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) kết thúc.
Chiến thắng của phe Đồng minh trước phe phát xít trong năm 1945 đã tạo thời cơ để Việt Nam giành độc lập. Tuy nhiên, cần có sự chuẩn bị từ trước thì mới có đủ lực lượng để đón nhận thời cơ này.
Tháng 5/1941, Đảng ta đã chủ trương thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) để thực hiện việc đại đoàn kết toàn dân tộc chống ngoại xâm và giành lại độc lập dân tộc. Sau đó, những Hội Cứu quốc là thành viên của Mặt trận Việt Minh với nòng cốt là Nông dân cứu quốc; Công nhân cứu quốc và các thành viên khác như Thanh niên cứu quốc; Phụ nữ cứu quốc; Phụ lão cứu quốc; Văn hóa cứu quốc... đã làm cho Mặt trận ngày càng phát triển rộng rãi, là lực lượng quan trọng nhất để tổng khởi nghĩa toàn quốc giành chính quyền về tay Nhân dân. Khi viết về thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, nhà sử học Pháp Philippe Devillers, trong cuốn sách “Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952” nhận định: “Nó còn là kết quả logic của Việt Minh trong mọi khu vực của đời sống đất nước”.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (12/1944) và sau đó là Việt Nam Giải phóng quân (5/1945) được Đảng ta thành lập. Do đó, ngay từ rất sớm, Đảng ta đã xây dựng lực lượng vũ trang để làm nhiệm vụ đấu tranh vũ trang giành chính quyền về tay Nhân dân.
Đảng ta đặc biệt quan tâm đến xây dựng các căn cứ địa cách mạng. Pác Bó-Cao Bằng là căn cứ địa cách mạng đầu tiên được xây dựng. Tiếp đó, Căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn-Võ Nhai được thành lập (2/1941). Đầu năm 1943, Căn cứ Cao Bằng-Bắc Sơn được nối liền. Sau đó căn cứ địa được mở rộng ra 6 tỉnh: Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái. Tháng 6/1945, Đảng ta quyết định thành lập Khu giải phóng Việt Bắc và cùng với hệ thống các chiến khu trong cả nước tạo thành bàn đạp vững chắc cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Bên cạnh đó, cần phải giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương nếu không tình hình sẽ hết sức hỗn loạn, hết sức phức tạp. Ngày 16/8/1945, Nghị quyết Quốc dân Đại hội nhấn mạnh: “Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập. Nhiều sự gay go trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự không có lợi cho ta. Kiên quyết để giành cho được nếu hoàn toàn độc lập” . Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa (18/8/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Với 5.000 đảng viên, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lật nhào sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân đế quốc và phong kiến. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nói về nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Tám đã thành công vì có được ba điều kiện không thể thiếu được đối với bất cứ một cuộc cách mạng phản đế nào ở một nước thuộc địa; đó là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự thành lập một mặt trận dân tộc phản đế rộng rãi, khởi nghĩa vũ trang” và “Đó là thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ của giai cấp công nhân, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Đó là thắng lợi của đường lối đoàn kết toàn dân, sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến. Đó là sự tài tình, sáng tạo của Đảng trong việc tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước”.
Sự chuẩn bị lâu dài, chu đáo, kĩ lưỡng về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng ta, khiến quan điểm của nhà sử học người Na Uy Stein Tonnesson cho rằng Cách mạng Tháng Tám là “ăn may” đã được chứng minh là phiến diện, sai lầm. Đúng như Giáo sư William J.Duiker, nhà sử học nổi tiếng của Mỹ, nhận định: “Chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản”.
Tiến sĩ Sanomish Dashtsevel (Mông Cổ) nhấn mạnh trong bài tham luận hội thảo quốc tế “Việt Nam trong thế kỉ XX” tổ chức tại Hà Nội (tháng 9/2000): “Cách mạng Tháng Tám đã tạo điều kiện cho Nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước, giành được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước. Cuộc Cách mạng Tháng Tám còn có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc và dân chủ ở các nước châu Á và trên thế giới”.
Thomas Hodgkin, trong cuốn “Thế giới bàn về Việt Nam”, đánh giá Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một sự kiện “quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga” . Tác giả đã viết rằng: “Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời được 15 năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa… Như vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kì mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”.