Cụ già 82 tuổi đề nghị giám đốc thẩm bản án có dấu hiệu “vu khống”
Pháp luật - Bạn đọc 14/08/2020 11:28
Gia tộc kiện tụng
Ở tuổi 82, cụ Trần Văn Muôn, ở 55/7c, ấp Đông Tác, xã Tân Đông Hiệp, TP Dĩ An, tỉnh Bình Dương không nén được thở dài khi kể về vụ án anh em kiện tụng tranh chấp di sản thừa kế. Cụ Muôn chia sẻ, anh em đông, và lại con mẹ trước, mẹ sau thì việc tranh chấp di sản khó tránh khỏi vì mỗi người một tính nhưng hy vọng ra tòa, phán xét của công lý giúp mọi người nghĩ lại sẽ đoàn kết hơn. “Ở đây chưa có công lý nên gia tộc ôm nỗi buồn dai dẳng”, ông thở dài.
Căn nhà đang tranh chấp |
Theo Bản án phúc thẩm số 17/DSPT ngày 21/5/2004 của TAND Tối cao, cụ Trần Văn Trong có 13 người con, gồm 3 người con với cụ bà Trần Thị Lững và 10 người con với cụ bà Đặng Thị Hối. Khi qua đời, cụ Trong có di sản là căn nhà ngói xây tường rộng 156,3 m2 gắn với diện tích đất 1.945,2 m2 và nhiều đất đai khác. Đất đai khác đã chia cho con cháu, còn căn nhà số 55/7c gắn với 1.945,2 m2 đất, vì cụ Trần Văn Muôn là con út của cụ bà đầu, nên được giao ở để nuôi mẹ và thờ cúng tổ tiên. Họ sống yên ổn hòa thuận nhiều năm cho đến năm 1994, những người con của cụ bà sau lôi kéo được cụ bà Trần Thị Lững lúc đó đã 80 tuổi làm đơn kiện chia đất và nhà ông Muôn đang ở, cho các con bà sau.
Vụ kiện được TAND TP Dĩ An xử sơ thẩm hai lần đều bị án phúc thẩm hủy. Sau đó, đại diện của nguyên đơn là một người con của cụ bà sau do quá nản nên luôn vắng mặt khi tòa triệu tập xét xử. Ngày 20/10/2020, TAND TP Dĩ An ra Quyết định số 30/QĐ/ĐC/STDS đình chỉ vụ án. Một số người con của cụ bà sau làm đơn kháng cáo, cho rằng không nhận được giấy triệu tập của tòa.
Đơn khiếu nại gửi lên TAND tỉnh Bình Dương và TAND tỉnh đã ra quyết định phúc thẩm hủy quyết định của cấp sơ thẩm, giữ lại vụ án để TAND tỉnh thụ lý giải quyết sơ thẩm theo thủ tục chung. Quyết định thụ lý số 37/DSST ngày 15/10/2001, sau đó TAND tỉnh Bình Dương xử sơ thẩm tuyên Bản án số 08/DSST ngày 18/6/2003, chấp nhận đơn kiện, buộc chia thừa kế nhà và đất cho nhiều người.
Cụ Trần Văn Muôn kháng cáo nên Tòa phúc thẩm TAND Tối cao xử phúc thẩm, tuyên Bản án số 17/DSPT ngày 21/5/2004 “giữ nguyên án sơ thẩm”. Ngay sau đó, ông Muôn có đơn khiếu nại, xin kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm gửi Chánh án TAND Tối cao và Viện trưởng Viện KDND Tối cao. Ngày 29/12/2004, Viện KSND Tối cao có Công văn số 98/CV-DS kháng nghị bản án phúc thẩm và yêu cầu hoãn thi hành án. Thế nhưng, trước đó 5 ngày, thi hành án địa phương đã tổ chức cưỡng chế với ông Muôn.
Bản án “vu khống”
Việc cưỡng chế gây nhiều tiếng khóc trong gia tộc đông người. Cưỡng chế xong thì công văn kháng nghị của Viện KSND Tối cao mới về tới địa phương, và cơ quan thi hành án báo cáo rằng đã lỡ rồi. “Cũng từ đó đến nay, có lẽ TAND Tối cao và Viện KSND Tối cao tưởng là thi hành án lỡ rồi mới bỏ trôi luôn. Nên hiện nay tôi có đơn khiếu nại bổ sung lần sau xin kháng nghị cấp giám đốc thẩm, sau khiếu nại lần đầu vào năm 2004”, cụ Muôn giải thích.
Đơn khiếu nại của cụ Muôn nêu nhiều nội dung cho rằng bản án sơ thẩm xử sai và bản án phúc thẩm dựa vào đó phán quyết mà không xem xét đầy đủ hồ sơ chứng lý. Chẳng hạn, căn nhà của cụ đang ở do cha mẹ để lại mang số 55/7c nhưng cả hai bản án tuyên chia thừa kế căn nhà mang số 50/7c. Trong lúc căn nhà 50/7c cũng ở ấp Đông Tác nhưng cách xa căn nhà 55/7c và của một người khác trong giòng tộc đang ở. Khi cưỡng chế thi hành án lại là nhà số 55/7c.
Về diện tích đất 1.945,2 m2 gắn liền với căn nhà số 55/7c, ông Muôn khẳng định chỉ có 300 m2 thổ cư, còn lại là đất nông nghiệp. Hàng năm cụ đã đóng thuế đất như thế và quy định của tỉnh Bình Dương lúc đó cũng chỉ cho phép một gia đình chỉ có 300 m2 thổ cư. Nhưng cả hai cấp tòa lại cho rằng toàn bộ diện tích đất 1.945,2 m2 là thổ cư để phán quyết chia thừa kế theo đơn kiện. Bởi vì đất nông nghiệp, theo quy định thời điểm đó, không được chia thừa kế mà ổn định cho người đang quản lý sử dụng.
Việc chia đất thừa kế thời điểm đó có các quy định khá cụ thể, nhằm ổn định xã hội, tránh xáo trộn. Bài của Thẩm phán TAND Tối cao Tưởng Duy Lượng đăng trong Tạp chí TAND số 21, năm 2009, ở trang 32 giải thích rất rõ: “Trong trường hợp người để lại quyền sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận/quyền sử dụng đất, nhưng người đang quản lý sử dụng đất đó đã được UBND thẩm quyền căn cứ Luật Đất đai nên đã cấp giấy chứng nhận/quyền sử dụng đất cho người đang quản lý sử dụng đất đó, thì bác yêu cầu của nguyên đơn xin chia thừa kế”. Trường hợp của ông Muôn đúng như vậy.
Nhưng cụ Muôn thảng thốt nhất là khi nhắc tới việc hai bản án cho rằng ông đã rút yêu cầu phản tố. Bản án sơ thẩm viết: “Bị đơn tại tòa đã rút yêu cầu phản tố (…) Chấp nhận việc rút yêu cầu phản tố của bị đơn Trần Văn Muôn tại tòa”. Bản án phúc thẩm viết: “Đối với yêu cầu phản tố của ông Muôn, xét tại phiên tòa sơ thẩm, ông đã rút yêu cầu phản tố nên tòa sơ thẩm đã chấp nhận và ghi nhận trong phần quyết định của bản án. Nay nếu ông yêu cầu tiếp tục xem xét các yêu cầu phản tố của ông thì có thể đi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác”.
Cụ Muôn giơ hai tay lên trời kêu: “Việc ghi gian này rất đáng ngạc nhiên. Tôi rút yêu cầu phản tố bao giờ sao tôi không biết? Tòa sơ thẩm vu khống tôi rút yêu cầu phản tố để dễ dàng đem chia căn nhà và đất mà cha mẹ giao tôi quản lý sử dụng từ lâu. Án phúc thẩm không phát hiện sự gian trá nên cố giữ nguyên án sơ thẩm”.
Luật sư Nguyễn Tấn Phát bảo vệ quyền lợi cho cụ Muôn tại phiên sơ thẩm, cho biết: “Tôi còn nhớ lúc đó Chủ tọa phiên tòa hai lần hỏi bị đơn Muôn là có rút yêu cầu phản tố hay không? Tôi nghe rất rõ cụ Muôn trả lời là giữ nguyên, không rút bỏ yêu cầu phản tố. Không hiểu sao bây giờ án ghi như vậy?”.