Cần một bản án phúc thẩm thấu lí, đạt tình!
Pháp luật - Bạn đọc 19/04/2023 09:40
Ông Nguyễn Văn Nghĩa khởi kiện Chủ tịch UBND huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, yêu cầu Tòa án: Hủy các Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ và tài sản khác gắn liền với đất số BH 853208, BH 853209, BH 853210, BH 853211, BH 853212 do UBND huyện Tân Trụ cấp cùng ngày 30/9/2011 cho bà Sơn đối với các thửa đất 327, 343, 354, 501, 572, cùng thuộc tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện Tân Trụ. Bà Sơn là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Bản án số: 25/2023/HC-ST ngày 29/3/2023 của TAND tỉnh Long An (sau đây gọi là: Bản án số 25) xét xử sơ thẩm, quyết định:
“1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nghĩa đối với UBND huyện Tân Trụ, tỉnh Long An về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lí Nhà nước về đất đai”.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thiện Chí đối với UBND huyện Tân Trụ, tỉnh Long An về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lí Nhà nước về đất đai”.
Hợp đồng tặng cho QSDĐ, lập ngày 28/7/2011 được ông Nguyễn Văn Nghĩa kí cho bà Nguyễn Thị Thu Sơn. |
Hủy các Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ và tài sản khác gắn liền với đất số BH 853208, BH 853209, BH 853210, BH 853211, BH 853212 do UBND huyện Tân Trụ cấp cùng ngày 30/9/2011 cho bà Sơn đối với các thửa đất 327, 343, 354, 501, 572, cùng thuộc tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.”.
Những nội dung kháng cáo
Trong “Đơn kháng cáo bổ sung” đề ngày 10/4/2023, đối với toàn bộ Bản án số 25, bà Nguyễn Thị Thu Sơn trình bày lí do của việc kháng cáo:
Thứ nhất: Đã hết thời hiệu khởi kiện nhưng Tòa án sơ thẩm vẫn thụ lí, xét xử là có dấu hiệu làm trái quy định của pháp luật.
Tại Bản án số 25, có nội dung: “Về thời hiệu. Năm 2021, ông Nguyễn Văn Nghĩa phát hiện QSDĐ ông đang quản lí sử dụng nhưng lại cấp GCNQSDĐ cho bà Sơn thông qua hợp đồng tặng cho nên khởi kiện vào năm 2022. Căn cứ Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, trong thời hạn khởi kiện”.
Tuy nhiên, ngày 28/7/2011, tại trụ sở UBND xã Mỹ Bình (nay là xã Tân Bình), ông Nghĩa đã kí hợp đồng tặng cho bà Sơn QSDĐ các thửa số: 327, 343, 354, 501, 572, cùng thuộc tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bình Tây, xã Tân Bình. Hợp đồng này chính do ông Nghĩa kí tên trên Hợp đồng, được công chứng chứng thực theo đúng quy định pháp luật. Mặc dù ông Nghĩa có khai chữ kí trên Hợp đồng không phải của ông để chối bỏ nghĩa vụ theo Hợp đồng tặng cho QSDĐ, nhưng kết luận giám định chữ kí trên hợp đồng cũng đã thể hiện rõ đó là chữ kí của ông Nghĩa. Do đó, có căn cứ cho rằng ông Nghĩa biết về việc cấp GCNQSDĐ cho bà Sơn tại thời điểm năm 2011. Hợp đồng tặng cho này, ông Nghĩa và bà Sơn cùng kí trước mặt ông Đoàn Ngọc Thu, Chủ tịch UBND xã và đã được UBND xã Mỹ Bình (nay là xã Tân Bình) Chứng thực số: 46 ngày 28/7/2011, quyển số: 01/TP/CC-STC/HĐGD theo đúng quy định của pháp luật.
Bản án số: 25/2023/HC-ST ngày 29/3/2023 của TAND tỉnh Long An. |
Trên cơ sở hợp đồng tặng cho nêu trên, bà Sơn làm các thủ tục theo quy định, để đến ngày 30/9/2011 được UBND huyện Tân Trụ cấp cho bà Sơn: Giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ và tài sản khác gắn liền với đất số BH 853208, BH 853209, BH 853210, BH 853211, BH 853212 đối với các thửa đất 327, 343, 354, 501, 572, cùng thuộc tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
Từ năm 2010 đến tháng 3/2022, bà Sơn cùng chồng là ông Huỳnh Công Thành sinh sống, làm ruộng, làm vườn, cùng phụng dưỡng ông Nghĩa và vợ ông Nghĩa là bà Huỳnh Thị Hoa tại nhà, đất số 374 thuộc 4 thửa đất liền kề số: 327, 343, 354, 572 ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện Tân Trụ. Quá trình làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận cũng như khi được cấp GCNQSDĐ thì ông Nghĩa và vợ là bà Hoa đều biết.
Thêm vào đó, lời khai của nguyên đơn về thời điểm phát hiện việc cấp Giấy chứng nhận khác với nhận định của Tòa án. TAND tỉnh Long An nhận định vào năm 2021, ông Nghĩa phát hiện QSDĐ cấp cho bà Sơn do đó xác định còn thời hiệu khởi kiện. Nhưng tại lời khai của ông Nghĩa thì xác định đến ngày 21/3/2022, sau khi ông Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng kí đất đai huyện Tân Trụ cung cấp hồ sơ các thửa đất thì ông Nghĩa mới biết bà Sơn được cấp Giấy chứng nhận. Ở đây có sự mâu thuẫn trong lời khai của ông Nghĩa với nhận định của Tòa án; Hội đồng xét xử phiên tòa sơ thẩm giải thích như thế nào về sự mâu thuẫn này?
Có thể thấy, TAND tỉnh Long An lập luận đến năm 2021 ông Nghĩa mới phát hiện quyền sử dụng đất (QSDĐ) được cấp Giấy chứng nhận cho bà Sơn để xác định còn thời hiệu khởi kiện là có dấu hiệu thiếu khách quan; là cách xác định thời hiệu khởi kiện dựa trên lời khai không có căn cứ của phía nguyên đơn. Mặc khác, dựa trên các chứng cứ như Hợp đồng, Kết luận giám định chữ kí, là sự thật khách quan thể hiện có cơ sở xác định ông Nghĩa biết việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho bà Sơn từ năm 2011. Nhưng, đến 10 năm sau (2021), Tòa cấp sơ thẩm dựa vào lời khai của ông Nghĩa, để cho rằng: “Năm 2021, ông Nghĩa phát hiện QSDĐ ông đang quản lí sử dụng nhưng lại cấp GCNQSDĐ cho bà Sơn thông qua hợp đồng tặng cho nên khởi kiện vào năm 2022”, là thiếu căn cứ, không đúng sự thật; và thể hiện dấu hiệu Tòa án sơ thẩm thụ lí, xét xử vụ án khi đã hết thời hiệu khởi kiện, theo quy định tại Điều 116. Thời hiệu khởi kiện, Luật Tố tụng Hành chính năm 2015, Khoản 2 quy định: “2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: a) 1 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính”.
Thứ hai: Không triệu tập ông Thành, chồng bà Sơn tham gia tố tụng với tư cách người có quyền nghĩa vụ liên quan, là có dấu hiệu vi phạm tố tụng.
Các GCNQSDĐ được cấp vào năm 2011 cho bà Sơn là tài sản chung của vợ chồng bà Sơn trong thời kì hôn nhân. Chồng bà Sơn là người ở cùng bà Sơn và quản lí diện tích đất được cấp giấy chứng nhận nói trên từ trước đến nay. TAND tỉnh Long An không đưa chồng bà Sơn tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là thể hiện không đúng quy định pháp luật. Và việc không đưa ông Thành tham gia vụ án cũng là không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của ông Thành khi giải quyết vụ án.
Thứ ba: Người khởi kiện và Tòa án sơ thẩm cho rằng, bà Sơn không trực tiếp canh tác đất lúa là không đúng sự thật. Bởi lẽ: Năm 2010, bà Sơn nghỉ hưu và cùng chồng là ông Thành, lúc đó cũng nghỉ công tác nên cả hai vợ chồng bà Sơn về sống, làm ruộng, làm vườn cho đến đầu năm 2022. Cụ thể:
Thửa 327, diện tích 671,9m2, GCNQSDĐ cấp ngày 30/9/2011 cho bà Sơn, ghi: “Đất trồng cây hàng năm khác”, bà Sơn và chồng trồng cây các loại từ năm 2011 đến năm 2022. Trong năm 2010, vợ chồng bà Sơn đã sửa chữa nhà: Bỏ chái tạm, nền đất mục nát, xây dựng nhà kiên cố, thêm 2 phòng ngủ, nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh. Xây tường gạch, mái fibro ximang, nền gạch men. Toàn bộ phần xây mới lót gạch men, không giống nhà trước lót gạch tàu. Tổng chi phí hết hơn 800 triệu đồng.
Thửa 343, diện tích 1.165,3m2; GCNQSDĐ cấp ngày 30/9/2011 cho bà Sơn, ghi: “Đất chuyên trồng lúa nước”, vợ chồng bà Sơn trực tiếp trồng lúa từ năm 2011 đến năm 2019. Tháng 4/2020, bà Sơn xin phép và đã chuyển mục đích từ trồng lúa sang làm vườn, được UBND xã Tân Bình đồng ý. Thực tế, vợ chồng bà Sơn đã trồng cây dừa, sả, thiên lí, đào kênh nuôi cá Koi, cá tai tượng, v.v.
Thửa 354, diện tích 1.576,6m2; GCNQSDĐ cấp ngày 30/9/2011 cho bà Sơn, ghi: “Đất chuyên trồng lúa nước”, vợ chồng bà Sơn trực tiếp trồng lúa từ năm 2011 đến năm 2019. Tháng 4/2020, bà Sơn xin phép và đã chuyển mục đích từ trồng lúa sang làm vườn, được UBND xã Tân Bình đồng ý. Thực tế vợ chồng bà Sơn đã trồng cây dừa, sả, thiên lí, đào kênh nuôi cá Koi, cá tai tượng, v.v.
Các giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ và tài sản khác gắn liền với đất của bà Nguyễn Thị Thu Sơn. |
Thửa 572, diện tích 491,1m2; GCNQSDĐ cấp ngày 30/9/2011 cho bà Sơn, ghi: “Đất ở tại nông thôn”.
Thửa đất 572 có nhà do ông Nghĩa canh tác, khoảng năm 1978 với một phần tiền bạc của bà Sơn. Năm 2010, vợ chồng bà Sơn về ở cùng ông Nghĩa, từ năm 2019 đến 2020; ngoài các hạng mục đã sửa chữa nêu trên, vợ chồng bà Sơn đã chỉnh sửa và đầu tư, gồm: Làm la - phong toàn bộ nhà, gắn 2 máy lạnh. Hệ thống điện: Cắt đường dây diện câu nhờ nhà hàng xóm (nhà mợ Hai Thanh), đi đường điện ngầm từ trụ điện đường vào nhà, nâng cấp hệ thống điện trong nhà. Hệ thống nước: Nâng cấp hệ thống nước máy gồm bồn chứa inox, hệ thống trữ nước mưa, hệ thống lọc, máy bơm nước. Xây sàn lộ thiên ngang hông. Tổng chi phí hơn 70 triệu đồng.
Thửa đất số 501, diện tích 3.025,8m2, GCNQSDĐ cấp ngày 30/9/2011 cho bà Sơn, ghi: “Đất chuyên trồng lúa nước”, vợ chồng bà Sơn đã quản lí, sử dụng như sau:
Từ năm 2011 đến năm 2012, vợ chồng bà Sơn trực tiếp trồng lúa; từ năm 2013 đến năm 2020, bà Sơn cho ông Nguyễn Phước Tài (là cháu ruột, ấp Nhơn Trị 2) thuê quản lí, trồng lúa; từ năm 2021 đến năm 2023, bà Sơn cho ông Huỳnh Văn Dũng (người bà con, cùng ấp) thuê quản lí, trồng lúa.
Có thể thấy, cả 5 thửa đất mà ông Nghĩa tặng, thì vợ chồng bà Sơn liên tục quản lí, đóng thuế, sử dụng, cải tạo, trồng lúa, trồng cây, đào ao nuôi cá, với tổng chi phí tiền rất lớn.
Thứ tư: Người khởi kiện và Tòa án sơ thẩm cho rằng, các thửa đất là tài sản chung của vợ chồng ông Nghĩa, bà Hoa, nhưng Hợp đồng tặng cho QSDĐ ngày 28/7/2011 không có chữ kí của bà Hoa nên bị vô hiệu, là chưa đúng thực tế khách quan, bởi lẽ: 5 thửa đất mà ông Nghĩa tặng cho bà Sơn là đất thuộc quyền sử dụng riêng của ông Nghĩa.
Nguồn gốc các thửa đất số: 327, 343, 354, 501, 572, cùng thuộc tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An là của mẹ đẻ ông Nghĩa là cụ Phạm Thị Khải tạo lập, quản lí, sử dụng, sau đó cho riêng ông Nghĩa chứ không cho bà Hoa nên ông Nghĩa toàn quyền quyết định về việc tặng cho bà Sơn.
Thứ Năm: Tại Bản án số 25, đại diện Viện KSND nêu:
“Về nội dung: Ông Nghĩa được cấp giấy chủ quyền các thửa đất vào ngày 30/9/1997, gồm các thửa đất: 509, 513, 515, 517 và 1644, trong đó thửa 509 là đất vườn, thửa 513 là đất thổ, các thửa còn lại là đất lúa. Sau đó ông Nghĩa có đơn xin cấp lại, cấp đổi GCNQSDĐ. Ngày 30/10/2010, ông Nghĩa được UBND huyện Tân Trụ cấp GCNQSDĐ, QSHNƠ và tài sản khác gắn liền với đất số BH 816901, BH 816902, BH 816903, BH 816904, BH 816905, gồm các thửa 327, 343, 354, 501, 572, cùng thuộc tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
Ngày 28/7/2011, ông Nghĩa lập hợp đồng tặng cho con là bà Sơn. Căn cứ các quy định của pháp luật về đất đai như Điều 49, Điều 50, Điều 105, Điều 106 Luật Đất đai và Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2003 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003, ông Nghĩa được cấp QSDĐ và được thực hiện tặng cho là đúng quy định.
Căn cứ biên bản thẩm định tại chỗ ngày 16/2/2023, các thửa đất ông Nghĩa tặng cho trên đất có nhà cửa, cây trồng do ông Nghĩa và bà Sơn trồng. Trên đất còn có nhà mồ của bà Hoa-vợ ông Nghĩa. Bà Sơn có sửa chữa nhà và đầu tư trên đất như cây trồng trên thửa đất 327, 572 là có thật. Đối với thửa 501 bà Sơn thuê ông Dũng quản lí trồng lúa. Sự việc bà Sơn được tặng cho và quản lí sử dụng đất có các em bà Sơn như ông Nguyễn Công Toại, Nguyễn Thiện Tường, bà Nguyễn Hoàng Yến biết. Ngoài ra một số người xung quanh xác nhận việc bà Sơn sửa nhà. Phía đại diện người khởi kiện trình bày thời điểm tặng cho, ông Nghĩa bị tâm thần nhưng không có giấy tờ chứng minh. Trong khi kết quả giám định tâm thần cho thấy ông Nghĩa vẫn tiếp xúc tốt, tỉnh táo, bình thường. Phía người khởi kiện không thừa nhận có hợp đồng tặng cho nhưng kết quả giám định của Phòng Kĩ thuật hình sự xác định chữ kí ông Nghĩa trong hợp đồng tặng cho cùng chữ kí mẫu của ông Nghĩa là cùng một người kí. Như vậy, việc ông Nghĩa tặng cho QSDĐ bà Sơn là có căn cứ. Chính vì có việc tặng cho nên bà Sơn mới sửa chữa nhà và sử dụng. Mặt khác, khi UBND xã vận động mở đường, bà Sơn đồng ý dù khi đó có mặt ông Nghĩa, ông Nghĩa không có ý kiến phản đối.
Từ những phân tích trên, yêu cầu khởi kiện của ông Nghĩa và ông Chí yêu cầu hủy 5 GCNQSDĐ là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của các đương sự. Miễn án phí cho ông Nghĩa, buộc ông Chí chịu tiền án phí hành chính sơ thẩm theo quy định”.
Ý kiến trên đây của đại diện Viện KSND tỉnh Long An thể hiện khách quan, nhưng rất tiếc không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Bức xúc của người cao tuổi
Bà Sơn khẳng định: “Tôi và các anh chị em ruột của tôi đều biết ông Nghĩa dùng tài sản của riêng ông Nghĩa cho tặng tôi (Sơn). Thực tế, bà Hoa sinh ra và lớn lên ở ấp Nhơn Trị 2, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An; bà Hoa cũng được cha mẹ cho riêng đất nên bà Hoa cũng đã làm hợp đồng tặng cho những người mà tôi được biết, cụ thể như sau:
Ông Nguyễn Thiện Chí, sinh 1965 (người đứng tên khởi kiện, yêu cầu độc lập) được bà Hoa tặng cho: Đất trồng lúa: 5.839m2 tại ấp Nhơn Trị 2, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An.
Ông Nguyễn Thanh Hà (người đại diện trong đơn), sinh 1957, được bà Hoa tặng cho: Đất ở nông thôn: 1.160m2; đất trồng lúa: 3.150m2 tại ấp Nhơn Trị 2, xã Nhơn Thạnh Trung, TP Tân An.
Có thể thấy, bà Hoa được cha mẹ cho riêng đất, sau đó một mình bà Hoa cũng kí tặng cho các con. Ông Nghĩa cũng được mẹ ông Nghĩa cho đất nên 2011 ông Nghĩa đã kí hợp đồng cho tặng tôi với 5 thửa đất trên. Việc ông Nghĩa, bà Hoa kí hợp đồng cho đất cho các con thì cả ông Nghĩa, bà Hoa đều thống nhất. Từ năm 2011, đến ngày bà Hoa chết (27/4/2021), bà Hoa ở cùng với ông Nghĩa và vợ chồng tôi tại số 374 ấp Bình Tây, xã Tân Bình, nên bà Hoa biết ông Nghĩa kí hợp đồng cho tặng 5 thửa đất nêu trên cho tôi và bà Hoa đồng ý, không có ý kiến gì. Sau khi bà Hoa chết, một số người tìm mọi cách ép ông Nghĩa đứng tên kiện để đòi đất của tôi (Việc ép ông Nghĩa có ghi âm và cũng đã cung cấp cho TAND tỉnh Long An).
Và, mặc dù bà Hoa không kí tặng trên Hợp đồng nhưng trước đó tại cuộc họp gia đình, bà Hoa cũng đã thống nhất đồng ý tặng cho QSDĐ cho tôi. Tại cuộc họp gia đình có sự ghi nhận của anh em trong gia đình tôi như: Ông Nguyễn Thiện Tường, ông Nguyễn Công Toại, bà Nguyễn Hoàng Yến chứng minh việc bà Hoa hoàn toàn biết và đồng ý việc tặng cho này. Lời khai của ông Tường, ông Toại, bà Yến hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ thực tế có trong vụ án. Do đó, cần công nhận những lời khai này là khách quan và hoàn toàn có căn cứ xác định bà Hoa biết và đồng ý việc tặng cho đất của ông Nghĩa.
Thực tế, các thửa đất và căn nhà tại địa chỉ 374 ấp Bình Tây, xã Tân Bình thuộc chủ quyền hợp pháp của vợ chồng tôi từ năm 2011, với đầy đủ giấy tờ hợp pháp. Việc cấp GCNQSDĐ, UBND huyện Tân Trụ đã làm đúng về trình tự thủ tục cấp cho tôi. Vấn đề này tại Bản án sơ thẩm nhận định ở trang 13: “Như vậy, việc UBND huyện Tân Trụ cấp GCNQSDĐ, QSHNƠ và tài sản khác gắn liền với đất cho bà Sơn trên cơ sở hợp đồng tặng cho được công chứng, chứng thực là đúng theo quy định”.
Vợ chồng và cha mẹ tôi đã sống liên tục trong căn nhà trên hơn 10 năm có bà con láng giềng xác nhận, không có tranh chấp. Nhà và đất được vợ chồng liên tục cải tạo và nâng cấp. Nhưng chúng tôi không những mất nơi ở mà còn mất phương tiện sinh sống và nguồn thu nhập. Chúng tôi đang bị vô cớ cấm không được vào nhà, đất của mình.
Nay, tôi buộc phải có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh giải quyết vụ án thấu lí, đạt tình, đúng pháp luật theo đúng tinh thần cải cách tư pháp, để: Hủy Bản án số 25; giữ nguyên giấy chứng nhận QSDĐ, QSHNƠ và tài sản khác gắn liền với đất số BH 853208, BH 853209, BH 853210, BH 853211, BH 853212 do UBND huyện Tân Trụ cấp cùng ngày 30/9/2011 cho bà Nguyễn Thị Thu Sơn đối với các thửa đất 327, 343, 354, 501, 572, cùng thuộc tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An”.