Việc chuyển dịch quyền sở hữu tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Thái Hùng Cường, bà Trần Thị Loan ở TP Cần Thơ: Có dấu hiệu kê biên tài sản trái luật!
Pháp luật - Bạn đọc 07/01/2020 09:27
Tài sản của người chuyển nhượng là hợp pháp
Vợ chồng ông Thái Hùng Cường, bà Trần Thị Loan cùng trú tại số 13, hẻm 9, đường Mậu Thân, phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, là đồng chủ sở hữu QSDĐ và tài sản gắn liền với đất theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số BP 379296, số vào sổ CH01443 cấp ngày 30/7/2013, bởi UBND quận Ninh Kiều.
Từ khi có quyền sở hữu tài sản trên đến nay, vợ chồng ông Cường, bà Loan không nợ ai và cũng không có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền về việc chia tách đối với khối tài sản chung này.
Ngày 3/10/2016, ông Cường và bà Loan, đem quyền sở hữu tài sản trên thế chấp tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Cần Thơ. Đến ngày 2/5/2018, xóa nội dung đăng kí thế chấp.
Như vậy, kể từ ngày 2/5/2018 đến nay, tài sản trên vẫn đang thuộc quyền sở hữu hợp pháp của vợ chồng ông Cường, bà Loan. Đương nhiên, ông Cường, bà Loan có toàn quyền định đoạt đối với tài sản chung này.
Hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp
Sau khi xóa nội dung đăng kí thế chấp tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Cần Thơ (ngày 2/5/2018), vợ chồng ông Cường, bà Loan là đồng chủ sở hữu hợp pháp tài sản là QSDĐ và tài sản gắn liền với đất theo “Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số BP 379296, số vào sổ CH01443 cấp ngày 30/7/2013 bởi UBND quận Ninh Kiều.
Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, của vợ chồng ông Cường, bà Loan, không bị Tòa án cho kê biên khi đang thể chấp tại Ngân hàng. Sau khi giải chấp ông Cường, bà Loan đã thực hiện định đoạt đối với quyền sở hữu Giấy chứng nhận này. |
Ngày 5/5/2018, ông Cường và bà Loan cùng chị Huỳnh Bảo Trân, thỏa thuận đồng ý thực hiện việc chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất. Theo đó:
“Điều 1: QSDĐ và tài sản gắn liền với đất của bên A theo “Giấy chứng nhận QSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số BP 379296, số vào sổ CH01443 cấp ngày 30/7/2013, bởi UBND quân Ninh Kiều, chỉnh lí ngàv 3/10/2016. QSDĐ: Thửa đất số: 15; tờ bản đồ số: 02; địa chỉ thửa đất: 13, Hẻm 9, Mậu Thân, phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều; diện tích: 29,00m2. Tài sản gắn liền với đất là nhà: Địa chỉ: 13, Hẻm 9, Mậu Thân, phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều; diện tích xây dựng: 29,00m2; diện tích sàn: 58,00m2; kết cấu nhà: Kiên cố, mái tole, khung cột BTCT, sàn bê tông nhẹ, nền gạch hoa, tường riêng; cấp hạng: 4; số tầng: 02.
Điều 2: Giá chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất nêu tại Điều 1 của Hợp đồng này là 120 triệu đồng. Phương thức thanh toán: Do hai bên tự thỏa thuận và thực hiện theo quy định của pháp luật. Việc thanh toán số tiền nêu tại khoản 1 Điều này do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Điều 3: Bên A có nghĩa vụ giao thửa đất và tài sản gắn liền với đất nêu tại Điều 1 của Hợp đồng này cùng với giấy tờ về QSDĐ, giấy tờ về quyền sở hữu tài sản gắn liền cho bên B sau khi hợp đồng được công chứng. Bên B có nghĩa vụ thực hiện đăng kí QSDĐ, đăng kí quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Các bên tự nguyện thoả thuận giao kết hợp đồng này. Tại thời điểm công chứng, các bên giao kết hợp đồng có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội”.
Có thể thấy, Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất nói trên, là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật!
Có dấu hiệu kê biên tài sản trái luật!?
Theo Công văn số 150/CCTHADS-TLĐ ngày 8/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) quận Ninh Kiều: “Tại quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 66/QĐST-DS ngày 20/12/2016 của TAND quận Ninh Kiều (sau đây gọi là: Quyết định số 66), các đương sự thỏa thuận như sau: “Ông Cường có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Thé tổng số tiền 580 triệu đồng (trong đó nợ gốc 569 triệu đồng, còn lại là tiền lãi tính từ ngày 5/6/2016 đến ngày 12/12/2016 do các bên tự thỏa thuận). Ngoài ra, ông Cường phải chịu tiền lãi suất phát sinh, nếu chậm thi hành án. Ông Cường phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 13.600.000 đồng. Theo đơn yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Thé, Chi cục đã ra Quyết định thi hành án số 841/QĐ-CCTHA ngày 3/1/2017.
Tuy nhiên, Quyết định số 66 có những điểm cần thiết lưu ý như sau:
Một, chỉ có ông Cường trách nhiệm trả cho bà Thé tổng số tiền 580 triệu đồng, không có nội dung nào nói bà Loan (vợ ông Cường) có liên quan đến việc trả cho bà Thé số tiền này.
Hai, theo Công văn số 150/CCTHADS-TLĐ ngày 8/5/2019 của Chi cục THADS quận Ninh Kiều do ông Nguyễn Hữu Trung kí ngày 8/5/2019 cho biết Quyết định số 66 của TAND TP Cần Thơ chỉ cho biết, ông Cường thiếu tiền và trả nợ cho bà Thé theo thỏa thuận 2 bên (ông Cường và bà Thé); và Quyết định số 66 không có nội dung nào nói niêm phong nhà và đất hồ sơ đang thế chấp tại Ngân hàng.
Ba, vợ chồng ông Cường, bà Loan là đồng chủ sở hữu QSDĐ và tài sản gắn liền với đất theo “Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số BP 379296, số vào sổ CH01443 cấp ngày 30/7/2013, bởi UBND quận Ninh Kiều. Thực tế đến nay, vợ chồng ông Cường, bà Loan không có chung một khoản nợ với bất kì ai; và cũng không có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền về việc chia tách đối với tài sản đồng chủ sở hữu nói trên của vợ chồng ông Cường, bà Loan.
Do đó, việc Chi cục THADS quận Ninh Kiều, lấy lí do ông Cường có nợ và có cam kết thỏa thuận tại Tòa án rằng, sẽ trả nợ vay cho bà Thé, để kê biên đối đối với tài sản đồng chủ sở hữu nói trên của vợ chồng ông Cường, bà Loan, là thiếu cơ sở pháp lí. Bởi, bà Loan có liên quan gì đến Quyết định số 66 mà đem tài sản của bà Loan để thi hành bản án này? Nếu nói để thi hành án đối với ông Cường, thì tài sản cụ thể của ông Cường ở đâu để mà kê biên cho chính xác?