Phúc đáp Văn bản số 3688/UBND-NC ngày 4/7/2018 của UBND tỉnh Phú Yên: Cần sự hợp tác, nhưng trên cơ sở sự thật và pháp lí
Pháp luật - Bạn đọc 08/08/2018 09:25
Có lẽ, hơn ai hết lãnh đạo thị xã Sông Cầu và tỉnh Phú Yên biết rõ việc năm 1976, UBND huyện Sông Cầu lấy thửa đất có diện tích 2.675,4m2 tại thôn (nay là tổ dân phố Phước Lý), thị trấn Sông Cầu, huyện (nay là thị xã) Sông Cầu, để đổi 2.665m2 đất của dòng tộc Trần Quang, do ông Trần Quang Huấn làm Tộc trưởng, tại mặt tiền quốc lộ 1A, thị trấn Sông Cầu. Báo Người cao tuổi đã phản ánh hết sức cụ thể, dưới nhiều góc độ về sự kiện này. Sự thật đó không thể chối cãi, được chính quyền thị xã Sông Cầu và tỉnh Phú Yên nhiều lần thừa nhận. Ngay Văn bản số 3638 cũng đã thể hiện. Tuy nhiên, ở văn bản này cũng như nhiều văn bản khác, UBND huyện (nay là thị xã) Sông Cầu và tỉnh Phú Yên vẫn cứ khăng khăng cho rằng: Năm 1979, ông Huấn đã hiến toàn bộ vườn dừa cho Nhà nước; các khiếu nại của ông Huấn đã được cơ quan thẩm quyền xem xét; các cấp tòa xét xử, tuyên bác đơn nên đến nay ông Trần Quang Huỳnh có khiếu nại, tố cáo và hay làm gì đi chăng nữa, cũng không có căn cứ để giải quyết.
Điều mà chúng tôi lấy làm lạ, khó hiểu và không đồng tình, là tại sao các cơ quan có thẩm quyền và ngành chức năng ở thị xã Sông Cầu, cũng như tỉnh Phú Yên lâu nay vẫn sử dụng Biên bản không số: “Họp về việc giải quyết đất để mở rộng đề án kiến thiết cơ bản Xí nghiệp ép dầu 19/8” ngày 16/3/1979, làm căn cứ ban hành các văn bản xử lí vụ việc!? Chúng ta đều biết: Mọi thứ giả đều không được công nhận và không có căn cứ pháp lí. Đã nhiều lần, chúng tôi chỉ ra cho các cấp có thẩm quyền ở thị xã Sông Cầu và tỉnh Phú Yên, đó là một văn bản trái pháp luật, hay nói cách khác là Biên bản giả. Để phân tích sự giả mạo của Biên bản này, chúng tôi xin nêu toàn bộ nội dung như sau:
Thành phần dự họp về phía người dân có đất gồm các ông: Lê Thanh Phước, Trần Quang Huấn, Châu Khắc Ngộ, Trần Nho Hóa và bà Trần Thị Trọng. Phía chính quyền địa phương và Xí nghiệp 19/8 gồm các ông: Võ Duy Trinh, Phó Chủ tịch thị trấn; ông Hùng, cán bộ Phòng Nhà đất; ông Lương Tấn Hiến, Giám đốc và ông Nguyễn Thanh Cấn, Phó Giám đốc Xí nghiệp 19/8. Nội dung cuộc họp: Sau khi đồng chí thay mặt UBND thị trấn báo cáo lí do cuộc họp; đồng chí Hiến, Giám đốc Xí nghiệp trình bày đề án kiến thiết mở rộng Xí nghiệp nhằm bảo đảm chỉ tiêu kế hoạch của trên giao trong năm nay và lâu dài, để góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi phát biểu, đồng chí đề nghị các đơn vị sở hữu đất cho ý kiến.
Biên bản cuộc họp ngày 16/3/1979: Sao y bản chính nhưng không chữ kí, không con dấu
Sau khi các đơn vị thảo luận và đi đến nhất trí những điểm sau đây:
1)- Nhất trí hiến trọn số đất nằm trong bản vẽ của đề án mở rộng của Xí nghiệp để Nhà nước sử dụng nhằm phát triển sản xuất.
2)- Các cây ăn quả đã trồng lâu năm (dừa) thì chủ đất tiếp tục hưởng hoa lợi.
3)- Các cây mới được trồng thì đốn và được bồi thường theo giá quy định hiện hành (dừa con mới trồng dưới 2 năm).
4)- Từ ngày 16/3/1979, chủ đất không canh tác trồng trọt thêm các loại hoa màu gì nữa trong đất trên.
Cuộc họp nhất trí các điểm trên và kết thúc lúc 16 giở 30 phút cùng ngày. Đồng kí tên: Lê Thanh Phước, Châu Khắc Ngộ, Trần Quang Huấn, Trần Nho Hóa, Trần Thị Trọng (đã kí). TM UBND thị trấn SC Phó Chủ tịch (đã kí) và đóng dấu Võ Duy Trinh; TM Phòng Nhà đất (đã kí) Nguyễn Thí Hùng; TM XNCTHD ép dầu 19/8 Lương Tấn Hiến và Phó Giám đốc Nguyễn Thanh Cấn (đã kí); TM Nông Hội TT Sông Cầu, Nguyễn Đình Liễu (đã kí). Biên bản được Xí nghiệp dầu thực vật Sông Cầu “Y SAO BẢN CHÍNH”, số 01/SL-XN ngày 15/10/1989, do ông Phó Giám đốc Xí nghiệp Nguyễn Thanh Cấn kí tên đóng dấu. (Trên đây là nguyên văn của Biên bản).
Điều lạ mà ai cũng không thể tưởng được là, SAO Y BẢN CHÍNH nhưng không có ai trong thành phần cuộc họp kí tên, mà đều ghi chữ: Đã ki? SAO Y BẢN CHÍNH, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Sông Cầu kí tên đóng dấu, nhưng bản y sao không có chữ kí của ông, cũng chỉ (đã kí) và “đóng dấu” của Ủy ban cũng không nốt? Ông Huỳnh Đình Liễu, TM Nông Hội thị trấn Sông Cầu không có tên trong thành phần dự họp, nhưng vẫn (đã kí) tên?
Rõ ràng, đây là Biên bản giả, do ít nhất là ông Nguyễn Thanh Cấn dựng lên. Nhưng tại sao ông Cấn dựng lên? Dựng để làm gì? Ngoài ông ra còn ai khác? Người dựng Biên bản đã vụng về, thô thiển; người sử dụng biên bản, đặc biệt là các cơ quan có thẩm quyền ở thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên không hiểu sao lại chấp nhận biên bản giả ấy!? Ngoài Biên bản trên, từ nhiều năm nay và nhất là tại Văn bản số 3638, hình như thị xã Sông Cầu và tỉnh Phú Yên còn dựa vào 2 bản án vào năm 1999 của Tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Ở 2 bản án này, 2 cấp tòa đều bác đơn của người khởi kiện. Tuy nhiên, theo chúng tôi, do 2 bản án đó lấy Biên bản giả ngày 16/3/1979 làm căn cứ pháp lí, nên 2 bản án đó cũng không thể đúng sự thật, dù các vị thẩm phán có tài giỏi biện bạch đến mấy. Mặt khác, giả dụ 2 bản án đó là đúng, thì ông Trần Quang Huấn cũng không liên quan, không có trách nhiệm thực hiện, bởi ông không khởi kiện. Cần nhắc 2 tình tiết quan trọng liên quan đến “hiến”. Đó là hiến sao ông Huấn và cả dòng tộc khiếu nại, tố cáo liên tục từ 1989 đến nay? Hiến sao dòng tộc Trần Quang vẫn đóng thuế thửa đất đến năm 2008? Hiến từ năm 1979, sao đến năm 2001, UBND huyện Sông Cầu vẫn xét cấp cho mỗi hộ một lô đất diện tích 100m2, không thu tiền sử dụng đất, trong đó có dòng tộc Trần Quang, được nêu tại Thông báo số 33/TB-UB ngày 9/7/2001?
Mặc dù là giải pháp “bất đắc dĩ”, nhưng dòng tộc Trần Quang cũng như những người dân khác đã chấp thuận. Vậy mà sau một thời gian vòng vo, né tránh, cuối cùng chính quyền thị xã Sông Cầu và tỉnh Phú Yên đã “nuốt” luôn lời hứa và đến nay thì bác hẳn!? Chúng tôi cảm thấy nhức nhối về sự hành xử của chính quyền thị xã Sông Cầu và tỉnh Phú Yên, trong việc giải quyết khiếu nại của dòng tộc Trần Quang. Bởi phải nói đúng, cần nói đúng bản chất vụ việc, tình hình thực tế của địa phương và quy định của pháp luật, theo đề nghị của UBND tỉnh Phú Yên tại Văn bản số 3638, nên chúng tôi đề nghị lãnh đạo tỉnh Phú Yên xem xét lại vụ việc, nhằm có giải pháp toàn diện, thấu tình, đạt lí.
Ông Trần Quang Huỳnh, sau nhiều lần làm đơn khiếu nại việc không thực hiện Thông báo số 33, mong mỏi một chút ban ơn từ chính quyền. Nhưng ông càng khiếu nại, tố cáo, các cấp có thẩm quyền càng làm ngơ. Gần đây, ông Huỳnh không xin 100m2 nữa, mà đòi lại toàn bộ vườn dừa 2.675,4 m2, bị bỏ hoang từ năm 1995 đến nay. Biết rằng xin 100m2 đã khó, thì đòi lại 2.675,4m2 càng khó hơn. Tuy nhiên, ông vẫn làm, vì tin “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”, thì không bao giờ xử sự với dân như vậy. Ông Huỳnh cũng là cán bộ có hiểu biết pháp luật. Chính vì sự hiểu biết đó, ngày 18/5/2018, ông làm đơn đề nghị khởi tố vụ án hình sự về hành vi làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, để chiếm đoạt tài sản. Đơn đã gửi đến Bộ Công an, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và các cấp có thẩm quyền khác, trong đó có lãnh đạo Đảng, Nhà nước, UBND tỉnh Phú Yên và thị xã Sông Cầu. Ngày 15/7/2018, ông lại làm đơn tố cáo lần thứ 37 về việc thu hồi trái pháp luật vườn dừa của dòng tộc. Chúng tôi ủng hộ ý chí đó của ông và cho rằng, ông Huỳnh vẫn chưa hết niềm tin vào Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Đặc biệt, vẫn chưa hết ý chí đấu tranh cho công lí, lẽ phải, công bằng xã hội với thế lực “giặc nội xâm”, mặc dù biết rõ con đường đi tới đích của mình là vô cùng gian nan.
Nguyễn Xuân