Nhiều dấu hiệu làm trái, người cao tuổi có đơn tố giác
Pháp luật - Bạn đọc 06/08/2024 17:26
Nội dung vụ án
Ngày 30/5/2019, TAND quận 9, TP Hồ Chí Minh xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc, hợp đồng uỷ quyền”, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Ông Cao Văn Liễn, 67 tuổi, ở TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Phước, bà Nguyễn Kim Phụng, bà Nguyễn Kim Nga, ông Nguyễn Anh Tuấn, ông Nguyễn Hữu Đức, ông Nguyễn Hữu Mỹ, bà Đoàn Thị Thanh Ngân, bà Dương Thị Hồng Trang và bà Võ Thị Cúc Lan.
Theo hồ sơ: Căn hộ A402, lô C4, chung cư C3, C4, đường Man Thiện, phường Hiệp Phú, quận 9, các bên đều biết chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), Quyền sở hữu nhà ở (QSHNO) và tài sản khác gắn liền với đất (TSKGLVĐ), chỉ mới có Hợp đồng mua bán căn hộ giữa hộ ông Phước và Công ty TNHH MTV Dịch vụ công ích quận 9. Đôi bên có thoả thuận kí Hợp đồng đặt cọc là 540 triệu đồng (bị đơn đã nhận đủ số tiền này và giao căn hộ A402 cho nguyên đơn - ông Liễn); khi có GCNQSDĐ, QSHNO và TSKGLVĐ thì mới tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng; và việc chuyển nhượng cho ông Liễn trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận được Giấy chứng nhận nói trên, nếu chậm trễ coi như vi phạm hợp đồng.
Bản án số: 179/2019/DS-ST ngày 30/5/2019 của TAND quận 9, có hiệu lực pháp luật thi hành án. -Thông tin dịch vụ: ông Cao Văn Liễn gửi đơn cho Thủ trưởng Cơ quan Điều tra Viện KSND Tối cao. |
Hộ ông Phước được UBND quận 9 cấp Giấy chứng nhận số CH 03535 ngày 3/3/2017, nhưng từ chối chuyển nhượng căn hộ nêu trên cho nguyên đơn là lỗi hoàn toàn của hộ ông Phước. Tại Hợp đồng đặt cọc kí ngày 12/1/2016 các bên thỏa thuận: “Trường hợp bên bán từ chối việc chuyển nhượng vì bất cứ lí do gì thì bên bán phải bồi thường cho bên mua gấp đôi số tiền đã nhận cọc”. Do hộ ông Phước có lỗi, nên hộ ông Phước phải chịu tiền phạt cọc 540 triệu đồng.
Bản án số: 179/2019/DS-ST ngày 30/5/2019 của TAND quận 9, tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hủy Hợp đồng đặt cọc kí ngày 12/1/2016 giữa ông Liễn và hộ ông Phước nói trên. Buộc 9 bị đơn chịu trách nhiệm liên đới thanh toán cho ông Liễn số tiền cọc 540 triệu đồng và tiền phạt cọc 540 triệu đồng và 42.151.686 đồng tiền mua căn hộ đợt 2. Tổng cộng 1.122.151.686 đồng). Việc giao nhận tiền thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu bị đơn: Hủy Hợp đồng uỷ quyền số 492 kí ngày 12/1/2016 giữa ông Liễn và hộ ông Phước tại Văn phòng Công chứng quận 9.
Buộc ông Liễn bàn giao căn hộ A402, lô C4, chung cư C3,C4, đường Man Thiện, phường Hiệp Phú, quận 9, TP Hồ Chí Minh cho hộ ông Phước ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 12/1/2016 giữa ông Liễn và hộ ông Phước tại Văn phòng Công chứng quận 9 là vô hiệu.
Ông Cao Văn Liễn gửi đơn cho Thủ trưởng Cơ quan Điều tra Viện KSND Tối cao |
3. Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời số 22/2017/QĐ-BPKCTT ngày 1/6/2017 về việc “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” để bảo đảm Thi hành án (THA).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật THADS, người được THADS, người phải THADS có quyền thỏa thuận THA, quyền yêu cầu THA, tự nguyện THA hoặc bị cưỡng chế THA theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật THADS, thời hiệu THA được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật THADS Bản án trên, có hiệu lực pháp luật thi hành án.
Bản án số: 179/2019/DS-ST ngày 30/5/2019 của TAND quận 9, có hiệu lực pháp luật thi hành án.
Có dấu hiệu làm trái Luật THADS?
Một, căn cứ Bản án số: 179/2019/DSST ngày 30/5/2019 của TAND quận 9, ông Liễn có Đơn yêu cầu THA đối với bị đơn. Cụ thể: Ông Nguyễn Hữu Phước, bà Nguyễn Thị Kim Dung, bà Nguyễn Thị Kim Nga, ông Nguyễn Tuấn Anh Sinh, ông Nguyễn Hữu Đức, ông Nguyễn Hữu Mỹ, bà Đào Thị Ngân Sinh, bà Đào Thị Hồng Trang, bà Võ Thị Cúc phải trả cho ông Liễn số tiền là: 1.122.151.686 đồng. Việc giao dịch tiền thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Khi ông Liễn nhận đủ số tiền này thì ông Liễn sẽ giao trả lại căn hộ A 402 - Lô C4 - Chung cư C3, C4 đường Man Thiện, phường Hiệp Phú, quận 9 (nay thuộc TP Thủ Đức), TP Hồ Chí Minh lại cho hộ ông Phước.
Quyết định cưỡng chế giao căn hộ A402, lô C4, chung cư C3, C4, đường Man Thiện, phường Hiệp Phú đối với ông Cao Văn Liễn. |
Thực hiện Đơn yêu cầu THA của ông Liễn, Chi cục THADS quận 9 ra Quyết định THA số 291/QĐ-CCTHADS ngày 25/9/2019.
Do hộ ông Phước không nộp số tiền THA nói trên, ngày 19/3/2021, Chi cục THADS TP Thủ Đức ban hành Quyết định cưỡng chế và kê biên tài sản vào ngày 21/3/2021. Đại diện Chi cục THADS mời ông Liễn đến nhận quyết định.
Sự việc THA kéo dài đến ngày 8/9/2022, Chi cục THADS TP Thủ Đức ra Quyết định THA, buộc ông Liễn giao lại căn hộ A 402 lô C4, chung cư C3, C4 đường Man Thiện, phường Hiệp Phú, TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh cho hộ ông Phước, nhưng lại không buộc ông Phước phải THA trả đủ số tiền: 1.122.151.686 đồng cho ông Liễn.
Ông Liễn cho biết: “Ngày 31/5/2023, tôi được chấp hành viên Hoàng Thị Thủy mời lên và lập biên bản đề nghị tôi phải giao nhà cho hộ ông Phước. Bà Thủy nói với tôi là bản án trên không rõ ràng. Tôi hỏi lại chấp hành viên là: Không rõ chỗ nào? Sau đó tôi đưa bản án ra đọc lại cho bà Thủy nghe, và xem lại bản án đã tuyên và tôi hỏi bà Thủy đã thu được tiền THA cho tôi chưa, bà Thủy nói, bên ông Phước chỉ chịu trả số tiền 540 triệu đồng.
Do “án một đằng, thi hành một nẻo”, tôi đã giao nhà, nhưng không nhận được đủ số tiền theo Quyết định THA, nên tôi có đơn tố giác đề nghị cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, kiểm sát về việc thi hành toàn bộ Bản án số: 179/2019/DSST ngày 30/5/2019 của TAND quận 9; yêu cầu được trao trả đủ số tiền còn lại theo bản án đã có hiệu lực pháp luật từ năm 2019; việc THA kéo dài gây thiệt hại về kinh tế, sức khỏe cho người cao tuổi là tôi”.
Quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 22/2023/QĐ-TA ngày 17/10/2023 của TAND TP Thủ Đức. |
Hai, có dấu hiệu trì hoãn thời gian giải quyết việc thi hành án. Trong đơn gửi Thủ trưởng Cơ quan Điều tra Viện KSND Tối cao, ông Liễn viết:
“1. Việc có 4 người không có tên trong bản án và quyết định thi hành án (THA), nhưng vẫn được chấp hành viên Hoàng Thị Thủy đưa vào để chia tiền bán tài sản căn nhà chung cư của hộ ông Phước.
2. Quyết định THA theo đơn yêu cầu của tôi đã được Chi cục trưởng ra quyết định thi hành, ghi rất rõ ràng cũng không có tên 4 người ngoài bản án. Vậy mà 4 người ngoài bản án không có đơn yêu cầu được chia tiền bán tài sản căn hộ chung cư của hộ ông Phước, mà Chi cục THADS vẫn đưa vào có đúng Luật THADS không?
3. Việc chấp hành viên mời tôi lên nhận thông báo giảm giá tài sản bán đấu giá căn nhưng lại nói: Gia đình ông Phước có đơn đề nghị giao nhà và bản án không rõ ràng. Tôi hỏi lại: Thưa bà Hoàng Thị Thủy, không rõ chỗ nào? Chắc bà không xem, không đọc bản án và quyết định THA hay sao mà nói thế? Tôi lấy bản án ra đọc cho chấp hành viên nghe và nói rõ tôi lấy được tiền THA thì mới giao nhà. Hôm đó là ngày 30/5/2022 mà chấp hành viên không ghi ngày(!?).
4. Sau khi bán đấu giá xong, chấp hành viên Hoàng Thị Thủy viết giấy triệu tập tôi lên và thông báo trong vòng 30 ngày tôi phải giao nhà cho bên trúng đấu giá nếu không sẽ bị cưỡng chế. Tôi quá bất ngờ! Việc bán tài sản căn hộ trên chưa trả tiền cho tôi theo quyết định THA mà không thấy chi cục có động thái thông báo chi trả tiền THA cho tôi. Chưa trả cho tôi một xu nào mà cứ bảo tôi giao nhà là dựa vào quy định nào của Luật THADS?
5. Việc Chi cục xác nhận các thành viên trong hộ ông Phước để làm căn cứ chia tiền bán tài sản căn hộ không có đơn yêu cầu có đúng không? Và tại sao không ra quyết định phong tỏa tài sản luôn mà phải chờ tôi hối thúc mới thực hiện?
6. Ngày 19/7/2023, tôi tới Chi cục THADS TP Thủ Đức theo lời mời. Làm việc với tôi có bà Thủy, bà Phượng, bà Thu. Các bà đều đồng ý chi trả tiền THA cho tôi và ngay lập tức tôi sẽ giao lại căn hộ. Bà Thủy nói tôi chuyển số tài khoản của tôi cho bà làm thủ tục chuyển khoản. Rồi bà lập bản kê phần tiền để THA. Bà Thủy giao cho tôi 1 bản và nói tôi xuống phòng kế toán. Tôi tới phòng kế toán đưa bản kê chia tiền thì bà kế toán nói chưa đủ thủ tục. Tôi quay lại hỏi bà Thủy lấy phiếu chi cho tôi thì bà Thủy nói chức năng của bà chỉ có thế. Sau đó, tôi đề nghị bà Thuỷ ghi biên bản. Bà Thủy vẫn ép tôi phải giao nhà nếu không sẽ bị cưỡng chế. Tôi nói lại với bà Thủy là tôi phải lấy được tiền theo lời hứa của các vị tôi mới giao nhà được.
Ngày 7/10/2022, Chi cục THADS mời tôi lên làm việc, lí do đại diện gia đình ông Phước là bà Dương Thị Hồng Trang, ông Trần Quốc Toàn đề nghị được trả tiền cho tôi (540 triệu đồng và 42.151.686 đồng) tôi sẽ bàn giao căn hộ nói trên. Tôi không đồng ý yêu cầu của ông Toàn và yêu cầu cơ quan THADS thi hành theo Bản án số 179/DSST ngày 30/5/2019 của TAND quận 9. Bà Thủy đại diện Chi cục THADS cũng giải thích cho các bên biết là phải chấp hành bản án đang có hiệu lực THA. Theo đúng bản án việc giao nhà chưa thực hiện được vì hộ ông Phước chưa THA trả tiền cho hộ ông Cao Văn Liễn, Chi cục THADS TP Thủ Đức phải kê biên, xử lí để bảo đảm THA. Vậy mà tài sản đã bán xong ngày 29/6/2023, chấp hành viên Hoàng Thị Thủy nói với tôi là người mua đã nộp tiền mua tài sản cho cơ quan THA, thì tôi có trách nhiệm phải giao nhà mà không được nhận tiền. Bản án nêu, buộc gia đình ông Phước phải trả tiền THA cho tôi. Quyết định THA do Chi cục trưởng THADS quận 9 kí ngày 25/6/2019 có nội dung chỉ đạo rất rõ ràng là thông báo giao tài sản, sao không ra thông báo chi trả tiền cho tôi?
7. Ngày 22/7/2023, tôi nhận được Thông báo giao tài sản nhà chung cư cho người trúng đấu giá, thông báo ghi ngày 17/7/2023. Trong thông báo nói việc giao nhà và giao tiền trong một ngày, mà không có thông báo cụ thể là trả cho tôi bao nhiêu tiền? Ngày 24/7/2023, tôi có đơn yêu cầu Chi cục THADS thông báo rõ kế hoạch chi tiền THA cho tôi nhưng chưa có hồi âm. Ngày 18/8/2023, tôi nhận được quyết định cưỡng chế giao nhà và dự trù phí cưỡng chế của Chi cục THADS TP Thủ Đức. Đơn yêu cầu thông báo kế hoạch của tôi chưa trả lời, nay ra quyết định cưỡng chế. Như thế có đúng Luật THADS hay không?
8. Chấp hành viên Hoàng Thị Thủy, Chi cục THADS TP Thủ Đức kí Quyết định số: 142/QĐ-CCTHADS ngày 10/8/2023: “Cưỡng chế thi hành án đối với ông Cao Văn Liễn, giao căn hộ chung cư số 4.02 lô A, tên nhà chung cư C4, đường Man Thiện, phường Hiệp Phú, TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh” (Điều 1).
Trong khi, hơn 2 tháng sau (ngày 17/10/2023) TAND TP Thủ Đức mới ra Quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 22/2023/QĐ-TA ngày 17/10/2023 của TAND TP Thủ Đức, quyết định: Hủy bỏ: “Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản của hộ ông Nguyễn Hữu Phước là căn hộ số A402 lô C4, chung cư C3,C4, đường Man Thiện, phường Hiệp Phú, quận 9, TP Hồ Chí Minh theo Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư tái định cư ngày 30/12/2015 của Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ Công ích quận 9”.
Điều mâu thuẫn trên, thể hiện Chấp hành viên Hoàng Thị Thủy “cầm đèn chạy trước ô tô” (tự ý ban hành Quyết định cưỡng chế căn hộ số A402, trong khi căn hộ này đang bị TAND quận 9 có quyết định phong tỏa). Việc làm này của Chấp hành viên Hoàng Thị Thủy có đúng quy định của pháp luật về THA không?
Kính mong Thủ trưởng Cơ quan Điều tra, Viện KSND Tối cao xem xét giải quyết nội dung đơn này của tôi theo thẩm quyền, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của tôi theo quy định của pháp luật; đồng thời, tôi cam kết toàn bộ nội dung đã trình bày trên là hoàn toàn đúng sự thật và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thực hiện Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, Tạp chí Người cao tuổi đề nghị Thủ trưởng Cơ quan Điều tra, Viện KSND Tối cao xem xét, giải quyết nguyện vọng của người cao tuổi là ông Cao Văn Liễn; thông báo kết quả để Tạp chí trả lời người cao tuổi và bạn đọc theo quy định.