Tình trạng rụng tóc tuổi già và cách khắc phục

Sức khỏe 03/03/2021 09:00
Tại Mỹ, với định nghĩa THA là HA tâm thu 130 và/hoặc HA tâm trương 80 mmHg thì THA chiếm 46% dân số chung (>18 tuổi), chiếm 76% người 65-74 tuổi và chiếm 82% người # 75 tuổi. Ở Trung Quốc, THA xảy ra ở trên 50% NCT và hơn 90% ở người >80 tuổi. Tại Việt Nam, theo điều tra dịch tễ năm 2015 của Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam thì tỉ lệ THA trên dân số chung (>18 tuổi) là 47,3%, chiếm trên >60% người >60 tuổi và chiếm >80% người >80 tuổi. Trong số người mắc THA, chỉ 56,5% bệnh nhân điều trị thuốc hạ HA và 17,7 % bệnh nhân được kiểm soát tốt HA.
THA là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên thế giới, với khoảng 10 triệu người năm 2015; trong đó có 4,9 triệu người do bệnh tim thiếu máu cục bộ; 2 triệu người do xuất huyết não và 1,5 triệu người do đột qụy nhũn não. Nó cũng là yếu tố nguy cơ chính của suy tim, rung nhĩ, bệnh thận mạn, bệnh mạch máu ngoại vi, suy giảm chức năng nhận thức… là gánh nặng kinh tế cho bệnh nhân và gia đình.
![]() |
Ở những NCT nghi ngờ có THA, cần hỏi bệnh sử kĩ, khám lâm sàng, làm một số xét nghiệm và đánh giá toàn thể tình trạng chức năng (bệnh đồng mắc, thuốc đang dùng...). Chẩn đoán THA nên dựa trên ít nhất 3 lần đo HA khác nhau, với 2 lần khám riêng biệt.
Điều trị tuân theo nguyên tắc lấy bệnh nhân làm trung tâm, chú ý các bệnh đồng mắc, mức độ lão hóa, từ đó xác định HA mục tiêu và loại thuốc cần điều trị, điều trị đơn hay phối hợp. Nên khởi đầu bằng liều thấp, tăng liều chậm. Ưu tiên lựa chọn các thuốc có tác dụng kéo dài, làm giảm các biến chứng, tổn thương cơ quan đích, đặc biệt là đột qụy. Tránh triệu chứng tụt HA tư thế. THA là bệnh mạn tính nên cần theo dõi liên tục, điều trị đúng và đủ hằng ngày, điều trị lâu dài kết hợp điều chỉnh lối sống.
Thuốc điều trị tăng huyết áp ở NCT
Lợi tiểu loại thiazide được xem như là hòn đá tảng của điều trị THA vì giúp phòng ngừa đột qụy, biến cố tim mạch và giá thành rẻ. Tuy nhiên khi điều trị cần chú ý rối loạn điện giải (hạ kali và natri máu) nên cần kiểm tra xét nghiệm điện giải thường xuyên. Thuốc lợi tiểu thiazid làm tăng nồng độ acid uric trong máu nên cần thận trọng đối với bệnh nhân mắc bệnh gút.
Các thuốc chẹn kênh canxi (CCBs) đặc biệt tốt trong phòng ngừa đột qụy ở NCT tăng huyết áp vì trung tính về mặt chuyển hóa, ngoại trừ phù ngoại biên, ít phản ứng phụ. CCBs được chấp nhận thay thế cho lợi tiểu như là điều trị THA ở NCT và nhóm có hội chứng chuyển hóa, suy thận nặng.
Các thuốc ức chế men chuyển (ACEi) và ức chế thụ thể AT1 (ARB) có những ưu điểm cho bệnh nhân với bệnh lí tim mạch, đái tháo đường với tiểu albumin hay bệnh thận mạn. Tuy nhiên, thuốc này giảm HA không mạnh bằng CCBs và lợi tiểu ở NCT. Các nhóm thuốc khác. Chẹn Beta, chẹn adrenergic, tác nhân tác động lên thần kinh trung ương, giãn mạch trực tiếp và đối vận thụ thể mineralcorticoid (aldosterone) đều hữu hiệu cho giảm HA và trong điều trị một vài loại tổn thương cơ quan đích, các tình trạng đi kèm ở NCT tăng huyết áp.
Điều chỉnh lối sống.
Chế độ ăn hợp lí, bảo đảm đủ kali và các yếu tố vi lượng: Giảm ăn mặn (< 6 gam hay 1 thìa cà phê muối/ngày). Tăng cường rau xanh, hoa quả tươi. Hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và axít béo no.
Tích cực giảm cân, duy trì cân nặng với chỉ số khối cơ thể (BMI: Body mass index) từ 18,5 - 22,9 kg/m2. Cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90cm ở nam và dưới 80cm ở nữ. Hạn chế đồ uống có cồn, với 2 li/ngày cho nam giới và 1 li/ngày cho phụ nữ (một li= 340ml bia, 140ml rượu vang hoặc 40ml rượu chưng cất). Ngừng hút thuốc lá, thuốc lào. Tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30-60 phút/ngày. Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh; cần thư giãn, nghỉ ngơi hợp lí. Ngủ đủ giấc (7 tiếng/đêm ); tránh bị lạnh đột ngột.
Ngoài ra, NCT nên có máy đo HA cá nhân tại nhà để kiểm soát HA. Đặc biệt trong các trường hợp gặp bất thường, kết quả HA giúp việc xử lí cấp cứu đúng cách. Định kì thăm khám bác sĩ để được phát hiện, phòng ngừa, hỗ trợ trong kiểm soát và điều trị THA.