Cần xử lí nghiêm công trình xây dựng sai phép ở phường Tân Mai

Pháp luật - Bạn đọc 02/12/2022 09:10
Nội dung bản án sơ thẩm (lần hai) của TAND tỉnh An Giang
Như Tạp chí Người cao tuổi đã thông tin, Bản án số: 179/2020/DS-PT ngày 19/6/2020 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ)”, giữa nguvên đơn là ông Trần Trung Tính, sinh năm 1950 và bị đơn là bà Nguyễn Thị Yến, nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thủ tục tố tụng; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể khắc phục được”; tuyên xử: Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 27/2019/DS-ST ngày 31/5/2019 của TAND tỉnh An Giang (bản án sơ thẩm lần 1 của vụ án), giao hồ sơ cho TAND tỉnh An Giang xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.
![]() |
Hợp đồng ủy quyền ngày 8/12/2011, tại Văn phòng công chứng Mỹ Long, số 9 đường Lương Văn Cù, phường Mỹ Long, thành Phố Long Xuyên |
Bản án sơ thẩm số: 60/2022/DS-ST ngày 19/10/2022 của TAND tỉnh An Giang (lần 2), tuyên xử:
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tính về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Trung Tính với ông Huỳnh Kim Khôi, bà Nguyễn Thị Yến đối với 4 thửa đất:
Thửa đất số 228, tờ bản đồ số 22 diện tích 154,9m2 GCNQSDĐ số AM 315903 và thửa đất số 129, tờ bản đồ số 22 diện tích 226,7m2 GCNQSDĐ số AM 315904, cùng tọa lạc tại phường Bình Đức, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang, do UBND TP Long Xuyên cấp ngày 10/11/2008.
+ Thửa đất số 130, tờ bản đồ số 3 diện tích 1.553,20m2 GCNQSDĐ số AB 286644 và thửa đất số 58, tờ bản đồ số 3 diện tích 600m2 GCNQSDĐ số AB 286643 cùng tọa lạc tại phường Mỹ Hòa, TP Long Xuyên, do UBND TP Long Xuyên cấp ngày 24/12/2004.
Buộc bà Yến trả cho ông Tính số tiền 709.120.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Tính hủy hợp đồng chuyển nhượng và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Khôi, bà Yến với ông Trần Văn Hộ, bà Nguyễn Thu Thủy và bà Huỳnh Thị Yến Trinh; hủy các GCNQSDĐ số CS 07656 và CS 07657 ngày 9/5/2016 cấp cho ông Hộ, bà Thủy và GCNQSDĐ số CS 06997 và CS 06998 ngày 7/7/2017 cấp cho bà Trinh (đều do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp).
![]() |
Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng 4 thửa đất giữa ông Tính với vợ chồng ông Khôi, bà Yến diễn ra năm 2012. |
Những dấu hiệu đương sự cho là xét xử thiếu khách quan
Thứ nhất: Thừa nhận việc bị đơn làm trái nội dung cam kết trong “hợp đồng ủy quyền” ngày 8/12/2011. Điều này, thể hiện như sau:
a) Căn cứ, nội dung Bản án sơ thẩm số: 60/2022/DS-ST ngày 19/10/2022 của TAND tỉnh An Giang nhận định: “Do ông Tính đã không thực hiện đúng với những gì đã thỏa thuận trong nội dung “Hợp đồng ủy quyền” ngày 8/12/2011, đó là mang tiền đến Ngân hàng trả nợ thay cho ông Khôi, bà Yến và đem 4 GCNQSDĐ về và giữ lại để ông Khôi, bà Yến lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông. Điều đó buộc ông Khôi phải làm “giấy tay” chuyển nhượng đất cho ông Hộ, bà Thủy để có tiền trả nợ cho Ngân hàng mang giấy đất về và sau đó làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Hộ, bà Thủy và tặng cho con gái là chị Huỳnh Thị Yến Trinh, đây là nguyên nhân dẫn đến phát sinh tranh chấp.
b) Căn cứ “Hợp đồng ủy quyền” ngày 8/12/2011, tại Văn phòng Công chứng Mỹ Long, số 9 đường Lương Văn Cù, phường Mỹ Long, TP Long Xuyên, có nội dung: Bên uỷ quyền (bên A): Ông Huỳnh Kim Khôi cùng vợ là bà Nguyễn Thị Yến. Bên được uỷ quyền (bên B): Ông Trần Trung Tính. Bên A ủy quyền cho bên B theo những thoả thuận những nội dung sau đây:
Điều 1: Căn cứ ủy quyền: Bên A là chủ sử dụng 4 thửa đất nói trên.
Điều 7: “Mọi sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ hợp đồng này chỉ có giá trị khi lập thành văn bản và được Công chứng viên Văn phòng Công chứng Mỹ Long, tỉnh An Giang chứng nhận”.
c) Căn cứ thực tế đến nay, bên A và bên B chưa cùng nhau lập văn bản về sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ hợp đồng ủy quyền ngày 8/12/2011 (theo Điều 7 trên). Như vậy, Hợp đồng ủy quyền ngày 8/12/2011 đến nay vẫn còn nguyên giá trị pháp lí; do đó, các bên (A và B) không có quyền tự ý thay đổi bất cứ một nội dung trong “Hợp đồng ủy quyền” ngày 8/12/2011.
Thế nhưng, Bản án sơ thẩm số: 60/2022/DS-ST ngày 19/10/2022 của TAND tỉnh An Giang lại nhận định: “Do ông Tính đã không thực hiện đúng với những gì đã thỏa thuận trong nội dung “Hợp đồng ủy quyền” ngày 8/12/2011 đó là mang tiền đến Ngân hàng trả nợ thay cho ông Khôi, bà Yến và đem 4 GCNQSDĐ về và giữ lại để ông Khôi, bà Yến lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông. Điều đó buộc ông Khôi phải làm giấy tay chuyển nhượng đất cho ông Hộ, bà Thủy để có tiền trả nợ cho Ngân hàng mang giấy đất về”.
Nhận định này, thể hiện sự thừa nhận việc bị đơn làm trái nội dung cam kết của các bên (A và B) trong “Hợp đồng ủy quyền” ngày 8/12/2011.
![]() |
Các giấy nhận nợ |
Thứ hai: Xét xử sai nội dung yêu cầu của nguyên đơn. Điều này, thể hiện như sau:
Tại Bản án sơ thẩm số: 60/2022/DS-ST ngày 19/10/2022 của TAND tỉnh An Giang, Hội đồng xét xử xác định: Xét yêu cầu của ông Tính về việc yêu cầu hủy bỏ GCNQSDĐ số CS 07656 và CS 07657 ngày 9/5/2016 cấp cho ông Trần Văn Hộ, bà Nguyễn Thị Thu Thủy, GCNQSDĐ số CS 06997, CS 06998 ngày 7/7/2017 cấp cho bà Huỳnh Thị Yến Trinh (đều do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp), Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của ông Tính, vì các hợp đồng này đã được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục...”.
Có thể thấy, nguyên đơn yêu cầu hủy bỏ GCNQSDĐ, nhưng Tòa án lại xem xét, giải quyết về các hợp đồng (!?)
Thứ ba: Chưa xem xét, kết luận đầy đủ các tình tiết của vụ án. Điều này, thể hiện như sau:
Trong nội dung Bản án sơ thẩm số: 60/2022/DS-ST ngày 19/10/2022 của TAND tỉnh An Giang, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định: “Một điều đáng lưu ý khác là chỉ trong một thời gian rất ngắn từ ngày 1/10/2011 đến ngày 7/2/2012 mà ông Khôi, bà Yến lại vay của ông Tính với 4 lần vay số tiền lên đến 3.312.000.000 đồng, trong đó các lần vay về khoảng cách thời gian là rất gần nhau: như ngày 1/10/2011 vay 1.200.000.000 đồng, ngày 8/12/2011 vay 300.000.000 đồng, ngày 10/1/2012 vay 1.000.000.000 đồng và ngày 7/2/2012 vay 812.000.000 đồng. Vấn đề đặt ra là mục đích ông Khôi vay để làm gì trong khi ông chỉ nợ Ngân hàng số tiền 800.000.000 đồng và chỉ cần con số đó để đáo nợ Ngân hàng, ông Tính cho ông Khôi, bà Yến vay với số tiền lớn như vậy mà không cần bất cứ thủ tục hay tài sản gì để bảo đảm cho các khoản vay này?”
Có thể thấy, HĐXX chỉ xem xét việc giữa ông Khôi, bà Yến với ông Tính có giao dịch vay 800.000.000 đồng, để ông Khôi, bà Yến đáo nợ Ngân hàng. Trong khi, HĐXX biết có 4 thửa đất trong giao dịch này, nhưng không xem xét tổng trị giá 4 thửa đất là bao nhiêu? Và, cũng chưa làm rõ số tiền 800.000.000 đồng thế chấp ngân hàng, có liên quan như thế nào đối với tổng trị giá của 4 thửa đất ghi trong giấy nhận nợ?
Mặt khác, về nộp tiền và nhận lại GCNQSDĐ tại ngân hàng, ông Tính trình bày tại Tòa: “Trong 3.312.000.000 đồng, có 812.000.000 đồng tôi đã đưa cho vợ chồng ông Khôi bà Yến nhận để giải chấp ở ngân hàng, lấy GCNQSDĐ. Trước khi nhận 812.000.000 đồng, vợ chồng ông Khôi đến Văn phòng Công chứng Mỹ Long kí Hợp đồng chuyển nhượng 4 thửa đất. Nhưng do không có bản chính GCNQSDĐ, nên Văn phòng Công chứng Mỹ Long chưa chứng thực. Và, lúc đó tôi đang giữ 2 bản chính giấy Chứng minh Nhân dân của ông Khôi bà Yến. Sau đó, ông Khôi, bà Yến bội tín bằng cách xin cấp lại giấy Chứng minh Nhân dân, để chuyển nhượng 2 thửa đất toạ lạc tại phường Mỹ Hoà cho ông Hộ, bà Thuỷ. Sự việc bị tôi phát hiện và có đơn gửi TAND TP Long Xuyên yêu cầu ngăn chặn. Được TAND TP Long Xuyên phát hành Công văn số 29CV.TA ngày 22/02/2012; và hướng dẫn tôi gửi đơn (đề ngày 2/4/2012) đến Công an tỉnh An Giang tố cáo hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ông Khôi bà Yến. Phòng Cảnh sát hành chính, Công an tỉnh An Giang có Quyết số: 100/TB-PC64 (Đội 2) ngày 13/2/2013 thông báo “V/v thu hồi và huỷ bỏ Chứng minh Nhân dân đã cấp lại cho ông Khôi, bà Yến”. Vậy ông Khôi, bà Yến làm cách nào sang tên GCNQSDĐ cho ông Hộ bà Thuỷ? Sao án sơ thẩm lại công nhận hợp đồng chuyển nhượng của ông Khôi bà Yến với ông Hộ bà Thuỷ?” Những điều này, cũng thể hiện chưa xem xét, kết luận đầy đủ các tình tiết của vụ án.
Thứ tư: Có dấu hiệu “trọng cung”, không “trọng chứng”. Điều này, thể hiện:
Tại Bản án sơ thẩm số: 60/2022/DS-ST ngày 19/10/2022 của TAND tỉnh An Giang, có nội dung: “…Chấp nhận yêu cầu của bà Yến về việc bà và ông Khôi chỉ có nợ của ông Tính số tiền là 205.000.000 đồng, bởi lẽ hoàn toàn không có việc ông Khôi, bà Yến trên thực tế có nhận tiền từ ông Tính với số tiền mà ông yêu cầu theo 4 giấy nhận nợ và hợp đồng vay mà ông đã dùng làm chứng cứ để khởi kiện ông Khôi, bà Yến”.
Tuy nhiên, HĐXX phiên tòa sơ thẩm biết rõ đây chỉ là lời khai một phía (bị đơn), mà không có chứng cứ chứng minh, bị đơn vay và chỉ vay của ông Tính số tiền là 205.000.000 đồng. Việc “trọng cung”, mà không “trọng chứng” này, thể hiện việc xét xử thiếu khách quan!
Mặt khác, HĐXX đặt vấn đề: “Chỉ trong một thời gian rất ngắn từ ngày 1/10/2011 đến ngày 7/2/2012 mà ông Khôi, bà Yến lại vay của ông Tính với 4 lần vay số tiền lên đến 3.312.000.000 đồng, trong đó các lần vay về khoảng cách thời gian là rất gần nhau”.
Tuy nhiên, về hình thức và nội dung, chữ kí của các bên trong các giấy nhận nợ, thể hiện các giao dịch này phù hợp pháp luật. Và, HĐXX biết pháp luật không có quy định về giao dịch đúng pháp luật trong thời gian rất gần nhau.
Thứ năm: Công nhận giao dịch đối với tài sản đang có tranh chấp. Điều này, thể hiện như sau:
Hồ sơ thể hiện: Các giao dịch vay tài sản và giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng 4 thửa đất nêu trên, diễn ra vào năm 2012.
Theo Công văn số: 673/CV-PC45 ngày 28/3/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh An Giang, ngày 2/4/2012, ông Tính đã có đơn tố cáo ông Khôi, bà Yến về hành vi lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh An Giang. Công an tỉnh An Giang đã tạm ngưng chuyển nhượng đối với 4 thửa đất nêu trên. Tuy nhiên, sau đó bà Yến, ông Khôi vẫn hoàn tất việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Hộ, bà Thuỷ cũng như kí hợp đồng tặng cho bà Huỳnh Thị Yến Trinh quyền sử dụng 4 thửa đất này.
Xin nói rõ thêm: Đến ngày 9/5/2016, ông Hộ, bà Thuỷ được cấp sổ đỏ đối với 2 thửa đất trong 4 thửa đất nêu trên. Trong khi, Tòa án chưa thu thập chứng cứ để làm rõ đến khi các đương sự phát sinh tranh chấp thì thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Yến, ông Khôi với ông Hộ, bà Thủy đã tiến hành đến giai đoạn nào? Ông Hộ, bà Thủy có biết việc Cơ quan Cảnh sát điều tra thụ lí đối với vụ việc này hay không? Biết tại thời điểm nào? Do đó, Tòa án chưa có đủ căn cứ xác định việc chuyển nhượng có đúng quy định của pháp luật hay không? Và ông Hộ, bà Thuỷ có thuộc trường hợp ngay tình hay không?
Trong khi, hồ sơ vụ án thể hiện có đủ chứng cứ xác định bà Yến, ông Khôi đã vay của ông Tính số tiền hơn 3 tỉ đồng chưa trả, nhưng bà Yến vẫn đem 2 thửa đất còn lại tặng cho con gái của mình là bà Trinh, có dấu hiệu tẩu tán tài sản. Hơn nữa, trước khi bà Yến lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho bà Trinh khi bà Trinh cũng biết việc ông Tính đang khởi kiện đòi khoản tiền mà bà Yến, ông Khôi vay trước đây và đang yêu cầu bà Yến thực hiện việc chuyển nhượng 2 thửa đất này cho ông Tính. Có thể thấy, hợp đồng tặng cho tài sản này thực hiện trong khi đang tranh chấp, là dấu hiệu làm trái quy định Luật Đất đai. Thế nhưng, không hiểu tại sao HĐXX của phiên tòa sơ thẩm (lần 2), chưa xem xét, giải quyết làm rõ những tình tiết nghi vấn này?.
Từ các căn cứ trên, nguyên đơn của vụ án, ông Trần Trung Tính trông chờ một bản án khách quan, đúng pháp luật của phiên tòa phúc thẩm.