Cần bảo đảm quyền lợi cho các hộ dân khi thu hồi đất

Pháp luật - Bạn đọc 08/04/2025 17:00
Vụ án “Tranh chấp về dân sự và hợp đồng dân sự - tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu một phần để thi hành án, quyền sở hữu tài sản, hợp đồng thuê nhà, bồi thường thiệt hại”, đang xét xử tại TAND tỉnh Đồng Tháp, giữa nguyên đơn: Lê Thu Hồng; bị đơn: Nguyễn Thị Cúc. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Huỳnh Nhất Thống, Huỳnh Thị Thanh Tiền, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Nguyễn Quang Trung, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) TP Cao Lãnh; UBND TP Cao Lãnh; UBND phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Theo đơn khởi kiện của bà Lê Thu Hồng: Ngày 26/1/2007, Chi cục THADS thị xã Cao Lãnh (nay là TP Cao Lãnh) ban hành Quyết định Thi hành án số: 510/QD.THA- TĐYC về việc yêu cầu ông Nhu, bà Cúc phải liên đới trả cho bà Hồng 134.151.000 đồng. Ngày 8/5/2007, Chi cục THADS thị xã Cao Lãnh kê biên tài sản của ông Nhu, bà Cúc là 132m2 đất, một phần thửa 143, tờ bản đồ số 13 tại phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh.
![]() |
Ngày 28/2/2017, Ngân hàng xác nhận có thế chấp (vay ngày 13/7/2006) thể hiện Quyết định cưỡng chế kê biên ngày 25/4/2007 đối với tài sản đang thế chấp là trái quy định tại Khoản 4 điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. |
Ngày 23/9/2009, ông Nhu, bà Cúc và con trai là anh Huỳnh Nhất Thống chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất (QSDĐ) thửa 143 (có 132m2 đã kê biên) cho bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và ông Nguyễn Quang Trung (Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số: 380 ngày 23/9/2009). Ngày 14/10/2009, bà Tuyết và ông Trung được UBND TP Cao Lãnh cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số: AO 936164 là 261,6m2, thửa số 143, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh.
Cho rằng việc lập Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ của ông Nhu, bà Cúc sau khi đã có quyết định kê biên của Chi cục THADS là hành vi vi phạm pháp luật, bà Hồng yêu cầu: Tòa án tuyên bố Hợp đồng này là giao dịch vô hiệu một phần, để hoàn trả lại 132m2 đất của hộ bà Cúc, bảo đảm cho bà Cúc thi hành án trả nợ cho bà Hồng số tiền 134.151.000 đồng và lãi chậm thi hành án.
Vụ án đã qua nhiều lần xét xử. Tại phiên tòa ngày 28/3/2025, bà Tuyết đồng thời là đại diện theo ủy quyền của ông Trung trình bày: Năm 2009, bà Tuyết và ông Trung nhận chuyển nhượng QSDĐ của hộ bà Cúc nói trên, trên đất có nhà cấp 4 kiên cố của ông Nhu, bà Cúc. Sau khi chuyển nhượng 2 - 3 năm, bà Tuyết tháo dỡ toàn bộ căn nhà của ông Nhu, bà Cúc để cất nhà tiền chế hiện nay; yêu cầu công nhận QSDĐ cấp cho bà Tuyết và ông Trung là hợp pháp. Lí do, Chấp hành viên không thông báo cho người nhận thế chấp - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh TP Cao Lãnh; và cũng không thông báo cho cơ quan đăng kí quyền sở hữu - Văn phòng Đăng kí QSDĐ biết; trong khi Biên bản kê biên tài sản để thi hành án ngày 8/5/2007 có sai sót nghiêm trọng là: Bà Cúc đứng tên Giấy chứng nhận QSDĐ nhưng khi kê biên không có mặt bà Cúc chứng kiến và kí tên trong Biên bản; Biên bản không có nội dung giao tài sản kê biên cho ai tạm quản lí.
![]() |
![]() |
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất |
Cũng tại phiên tòa ngày 28/3/2025, đại diện của nguyên đơn bà Hồng giữ nguyên quan điểm: Việc chuyển nhượng QSDĐ của ông Nhu, bà Cúc sau khi đã có quyết định kê biên của Chi cục THADS là hành vi vi phạm pháp luật; yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa hộ bà Cúc với bà Tuyết, ông Trung nói trên là giao dịch vô hiệu một phần. Tuy nhiên, đại diện của nguyên đơn đã không viện dẫn ra điều luật nào Tòa án lấy làm căn cứ để tuyên bố giao dịch (Hợp đồng chuyển nhượng) vô hiệu một phần (!?).
Tại phiên tòa xét xử vụ án ngày 28/3/2025, luật sư Trần Đình Dũng (Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Tuyết, ông Trung đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) bác yêu cầu khởi kiện, bởi các căn cứ cụ thể như sau:
![]() |
Văn bản số 35 VPĐKĐĐ ngày 31/1/2013 |
Thứ nhất, việc bà Hồng không có tư cách và cũng không có quyền gì để khởi kiện Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa hộ bà Cúc xác lập với bà Tuyết, ông Trung ngày 23/9/2009, tại UBND phường Mỹ Phú. Bởi, trong Bản án số: 173/2006/DS-ST ngày 19/12/2006 của TAND TP Cao Lãnh tuyên xử bà Cúc, ông Nhu có trách nhiệm trả cho bà Hồng tổng số tiền 132.151.000 đồng, không có đề cập đến diện tích 261,28m2 đất (132m2), thửa số 143, tờ bản đồ 13, của bà Cúc, ông Nhu tại phường Mỹ Phú, để thi hành án trả nợ cho bà Hồng.
Thứ hai, yêu cầu khởi kiện của bà Hồng đã hết thời hiệu khởi kiện. Bởi, theo đơn khởi kiện ngày 22/8/2017 của bà Hồng: “Yêu cầu Tòa án tuyên hủy một phần Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số: 380 ngày 23/9/2009 do UBND phường Mỹ Phú xác lập giữa bà Tuyết, ông Trung với hộ gia đình bà Cúc, liên quan tới diện tích 132m2 thuộc một phần thửa đất 143, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại phương Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp”.
Đến ngày 4/5/2020, bà Hồng có đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Sau đó, ngày 25/7/2020, bà Lê Thu Hồng có đơn không rút yêu cầu khởi kiện và yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết.
Trong khi, nguyên đơn Lê Thu Hồng không có quyền khởi kiện vụ án, bởi vì theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng như sau: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 3 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng có quy định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm”.
![]() |
“Thông báo kết quả phân loại án” ngày 10/9/2014 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp: “Chưa đủ căn cứ xử lí trách nhiệm hình sự đối với Huỳnh Khắc Nhu về tội Vi phạm việc kê biên tài sản”. |
Theo quy định tại các điều của Bộ luật Dân sự đã nêu, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa bà Tuyết, ông Trung với hộ gia đình bà Cúc được xác lập vào ngày 23/9/2009. Thời điểm đó, bà Hồng đã có đơn yêu cầu thi hành án và đã biết rõ có Hợp đồng số: 380 ngày 23/9/2009 do UBND phường Mỹ Phú xác lập. Điều này, được thể hiện: Ngày 14/12/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường TP Cao Lãnh có Văn bản số: 1.000/TN-MT gửi Văn phòng Đăng kí QSDĐ TP Cao Lãnh có nội dung: Ngày 6/12/2012 Phòng Tài nguyên và Môi trường nhận được đơn của bà Lê Thu Hồng, nội dung đơn nêu rõ việc ông Nhu, bà Cúc kí Hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông Trung, bà Tuyết và đất đã cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Trung, bà Tuyết. Nhưng nhiều năm sau, đến ngày 25/7/2020, bà Hồng mới có yêu cầu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo quy định pháp luật nêu trên, yêu cầu khởi kiện của bà Hồng đã hết thời hiệu khởi kiện được quy định tại Bộ luật Dân sự. Nếu tính theo đơn khởi kiện ngày 22/8/2017 của bà Hồng thì cũng hết thời hiệu khởi kiện.
Tại điểm e, Khoản 1, Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
“1. Sau khi thụ lí vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: …...e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nhiều lần người liên quan có yêu cầu độc lập - bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết nhiều lần đề nghị và khiếu nại với yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu để đình chỉ yêu cầu khởi kiện, nhưng Tòa án đến nay chưa giải quyết đơn khiếu nại.
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, khi hết thời hạn đó thì đương sự mất quyền khởi kiện. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào việc hết thời hiệu khởi kiện để bác yêu cầu khởi kiện đòi hủy Hợp đồng của nguyên đơn Lê Thu Hồng”.
![]() |
Văn bản của Văn phòng Đăng kí QSDĐ TP Cao Lãnh khẳng định không nhận được yêu cầu ngăn chặn thực hiện các quyền của bà Nguyễn Thị Cúc của các cơ quan có thẩm quyền. |
Thứ ba, thi hành án kê biên đất đang thế chấp bảo đảm tại ngân hàng là chưa phù hợp với quy định pháp luật.
Ngày 24/4/2007, cơ quan Thi hành án dân sự xác minh ông Nhu, bà Cúc có diện tích đất 300m2 và đang thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh TP Cao Lãnh để bảo đảm số nợ vay 100.000.000 đồng.
Do ông Nhu, bà Cúc không tự nguyện thi hành án nên ngày 25/4/2007, chấp hành viên ra Quyết định cưỡng chế kê biên tài sản số: 33/QĐTHA vào ngày 8/5/2007.
Trong khi đó, Khoản 4, Điều 4 Nghị định: 163/2006/NĐ - CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, quy định: “Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp và có giá trị pháp lí với người thứ ba thì Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác không được kê biên tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp có quy định khác…”.
Việc cơ quan thi hành án ra quyết định kê biên tài sản đối với diện tích đất 132m2 (trong tổng số 300m2 đất của ông Nhu, bà Cúc) trong khi toàn bộ diện tích đất này trước đó đã được ông Nhu, bà Cúc thế chấp hợp pháp tại ngân hàng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Tại bản án sơ thẩm (lần 1), Tòa án căn cứ Mục IV Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT - BTP - VKS của Bộ Tư pháp, Viện KSND Tối cao để cho rằng, chấp hành viên có quyền kê biên tài sản. Tuy nhiên, quy định tại Mục IV Thông tư liên tịch số: 12/2001 chỉ áp dụng đối với các trường hợp tài sản đang thuộc sở hữu của người phải thi hành án (chưa cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ) và sau khi có bản án, quyết định của toà án thì họ chuyển nhượng tài sản đó cho người khác.
Đối với các tài sản đã được thế chấp hợp pháp tại ngân hàng thì theo quy định tại Khoản 4, Điều 4 Nghị định số: 163/2006 của Chính phủ, cơ quan Thi hành án dân sự không được kê biên để thực hiện bất kì một nghĩa vụ nào khác.
“Từ các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử TAND tỉnh Đồng Tháp căn cứ hai vấn đề chính nêu trên là: Yêu cầu hết thời hiệu khởi kiện và Thi hành án không được phép kê biên tài sản đang thế chấp tại ngân hàng, để bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thu Hồng về việc “Yêu cầu hủy một phần hợp đồng của Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số 380 ngày 23/9/2009”, luật sư Dũng đề nghị.
![]() |
Ngừng phiên tòa do không cung cấp bản chính Giấy chứng nhận QSDĐ
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vụ án - bà Tuyết bức xúc: “Tại phiên tòa ngày 28/3/2025, đại diện của Nguyên đơn (bà Hồng) luôn khẳng định: Việc chuyển nhượng QSDĐ của ông Nhu, bà Cúc sau khi đã có quyết định kê biên của Chi cục Thi hành án dân sự là hành vi vi phạm pháp luật; Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa hộ bà Cúc với bà Tuyết, ông Trung là giao dịch vô hiệu một phần. Nhưng đại diện của Nguyên đơn (bà Hồng) đã không viện dẫn ra điều luật nào làm căn cứ để tuyên bố giao dịch (Hợp đồng chuyển nhượng) vô hiệu một phần.
Và, tại Phiên tòa ngày 28/3/2025, Hội đồng xét xử và đại diện Viện KSND cũng không đưa yêu cầu đối với vị đại diện của Nguyên đơn bà Hồng là phải viện dẫn ra điều luật nào cho Tòa án áp dụng để tuyên bố giao dịch (chuyển nhượng QSDĐ) giữa hộ bà Cúc với bà Tuyết, ông Trung là vô hiệu một phần.
Thậm chí, đại diện Viện KSND còn nêu lí do, vì tôi không cung cấp bản chính Giấy chứng nhận QSDĐ do ông Trung và tôi đứng tên cho Tòa án, nên đề nghị ngừng phiên tòa.
Mặt khác, tại Phiên tòa trước, Thẩm phán yêu cầu tôi phải xóa thế chấp (sau khi nhận chuyển nhượng, ngày 21/9/2011, tôi đã thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cao Lãnh đến nay chưa xóa thế chấp) và đem bản chính QSDĐ nộp cho Tòa án.
Trong khi, Hội đồng xét xử biết việc tôi có xóa thế chấp, cung cấp hay không cung cấp bản chính Giấy chứng nhận QSDĐ do ông Trung và tôi đứng tên cho Tòa án thì cũng không thể làm thay đổi bản chất của những sự thật trong vụ án đang do Tòa án xét xử, đó là: Nguyên đơn không có quyền gì khởi kiện việc bà Cúc, ông Nhu về việc chuyển nhượng QSDĐ; yêu cầu khởi kiện của bà Hồng đã hết thời hiệu khởi kiện; cơ quan Thi hành án kê biên đất đang thế chấp bảo đảm tại ngân hàng là trái quy định pháp luật. Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị của luật sư bị đơn, để yêu cầu TAND tỉnh Đồng Tháp bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thu Hồng, để chấm dứt vụ án kéo dài 16 năm của anh em chúng tôi”. (Còn nữa)