Thửa đất số 63 không có tranh chấp, đủ điều kiện được cấp sổ đỏ
Pháp luật - Bạn đọc 14/12/2021 09:37
Bà Trần Thị Mai, hiện đang ở nhờ số nhà 546 Nguyễn Văn Linh, phường Hiến Nam, có đơn đề nghị UBND phường Hiến Nam xác nhận đủ điều kiện để được cấp sổ đỏ, nhưng do trước đó bà tố giác UBND phường Hiến Nam buông lỏng quản lí đất đai, để ông Trần Tuấn Tú (cháu bà Mai), là hộ liền kề đất công của tập thể, lấn chiếm, chuyển nhượng đất trái pháp luật cho ông Phạm Văn Mừng, công chức của tỉnh, tại thửa đất số 194, diện tích 78m2. Ngày 29/4/2020, UBND thành phố Hưng Yên có Báo cáo số 220/BC-UBND, kết luận việc bà Mai tố cáo ông Tú lấn chiếm đất công, UBND phường Hiến Nam buông lỏng quản lí đất đai là đúng sự thật. Nhưng những người vi phạm không bị xử lí theo pháp luật, dẫn đến họ câu kết, gây khó khăn cho hộ bà Mai trong việc cấp sổ đỏ, với lí do vì có tranh chấp tại thửa đất số 113 (bản đồ 299) với bà Tạ Thị Vây.
Bà Trần Thị Mai, đứng tại thửa đất số 63 không tranh chấp gì với bà Vây |
Thửa số 113, tờ bản đồ 299 nay là các thửa số 63, số 64, số 65 tờ bản đồ Vlap 50, có nguồn gốc rõ ràng
Căn cứ sổ mục kê của phường Hiến Nam, thửa đất số 113 cũ, tờ bản đồ 299 kí hiệu A, diện tích 275m2 mang tên cụ Trần Trung Tá (là bố đẻ của bà Mai), có tứ cận: Đông giáp ao công, phía Tây giáp đất nhà ông Thập, phía Nam giáp ao công… Ông Trần Văn Chuyền, con trai cả của cụ Tá, mất năm 1986; cụ Tá mất năm 2002. Theo di nguyện của cụ Tá, cụ Hoàng Thị Cảng và cụ Hoàng Thị Ảng (hai chị em gái là vợ của cụ Tá), thống nhất chia tài sản cho các con. Tại Biên bản họp gia đình chia tài sản ngày 20/11/2009, có 6 người con và cụ Ảng, đều nhất trí kí tên, chia cho bà Vây (vợ ông Chuyền); ông Khoa (con trai) và bà Mai (con gái), kích thước theo sơ đồ. Đến năm 2011 nghiệm thu theo bản đồ Vlap 50, thửa số 113 tách thành các thửa: Số 65 mang tên Tạ Thị Vây 226,5m2; thửa số 64, diện tích 83m2 mang tên Trần Đăng Khoa; thửa số 63, diện tích 83m2 mang tên Trần Thị Mai. Tổng diện tích 3 thửa này là 392,5m2 (không kể phần đất của bà Vây, ông Tú bán cho ông Mừng thửa đất số 194).
Việc chia đất theo biên bản tặng cho của gia đình cụ Ảng, các thành viên tự nguyện kí biên bản, có xác nhận của UBND phường Hiến Nam, hoàn toàn đúng theo quy định Điều 129 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2005. Năm 2011, trước khi chia tách, thửa số 113 vẫn mang tên cụ Trần Trung Tá đóng thuế đất. Từ năm 2012 tách thành các thửa số 63, số 64 do bà Mai và ông Khoa làm chủ và đóng thuế đất; thửa số 65 do bà Vây làm chủ và đóng thuế đất.
Cụ Hoàng Thị Ảng, người chia đất cho các con theo biên bản ngày 20/11/2009 |
Không có căn cứ tranh chấp đất với bà Mai tại thửa số 63
Ngày 10/9/2019, bà Tạ Thị Vây có Giấy chứng thực số 397/2019, ủy quyền cho con trai là Trần Tuấn Tú giải quyết các công việc, liên quan đến tranh chấp đất tại thửa số 113, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 299), nay là các thửa số 63, số 64, số 65 và thửa số 194 tờ bản đồ Vlap (bản đồ số 50). Do bà Vây cho rằng, bà không dự họp ngày 20/11/2009, không kí vào biên bản chia đất, đến năm 2019, bà Vây mới phát hiện biên bản không phải do bà kí, nên có đơn đề nghị giám định chữ kí. Khi có kết quả giám định thì mới có cơ sở để hủy biên bản ngày 20/11/2009, để giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, bà Vây có mặt tại buổi họp và chính bà kí vào biên bản trước mặt mọi người trong gia đình, nên không có cơ sở để bà hủy chữ kí của mình, không công nhận nội dung phân chia đất. Mặt khác, đây là tài sản bố mẹ chia cho con, bà là con dâu được gia đình tặng cho phần nhiều, gần 3 lần diện tích của những người con khác, là ông Khoa và bà Mai, do gia đình vẫn theo phong tục của người Việt chia cho con cả phần nhiều. Nếu chia theo thừa kế, gia đình bà Vây cũng chỉ bằng diện tích của ông Khoa và bà Mai, không thể được gấp hơn 3 lần như vậy. Thực tế này cho thấy, biên bản tặng cho phân chia đất của cụ Ảng với các con là có lí, có tình, được pháp luật công nhận. Chẳng lẽ bà Vây đòi nốt, chiếm cả số đất của ông Khoa và bà Mai? Hay bà Vây được quá nhiều, nay muốn trả lại đất để cụ Ảng chia cho các con bằng nhau theo pháp luật? Trên thực địa, thửa đất số 63 của bà Mai không liền kề với thửa số 65 của bà Vây, nên bà Mai không thể nhảy qua thửa số 64 của ông Khoa để lấn chiếm, tranh chấp với bà Vây, nên không có tranh chấp với bà Vây tại thửa số 63 và thửa số 65.
Thông báo kết quả đơn tố cáo của bà Mai về việc đối tượng Trần Tuán Tú lấn chiếm đất công |
Cố tình giải quyết tranh chấp đất trái pháp luật, sai sự thật
Trong các ngày 17/4/2019, 28/9/2020, 22/10/2020, UBND phường Hiến Nam có Báo cáo số 39/CB, Tờ trình số 1706, Văn bản tư pháp số 103/UBND, tại trang 1 của 3 văn bản này đều có nội dung, tờ bản đồ số 9, thửa số 113 đang có tranh chấp. Theo mốc giới thửa số 113, bản đồ 299, nay là các thửa số 63 của bà Mai, số 64 của ông Khoa, không có tranh chấp gì với thửa số 65 của bà Vây. Thế nhưng, nhiều năm liền UBND phường Hiến Nam vẫn cố tình gán cho bà Mai có tranh chấp đất tại thửa số 113. Sự thật, UBND phường Hiến Nam phải xem xét thửa số 63 của bà Mai có liền kề, có lấn chiếm gây tranh chấp với bà Vây hay không?
Ngày 9/6/2020, ông Trần Tuấn Tú có đơn đề nghị gửi UBND thành phố Hưng Yên, Phòng Tài nguyên và Môi trường TP Hưng Yên, UBND phường Hiến Nam, yêu cầu: “Tạm dừng việc đo đạc diện tích và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận cho ông Trần Đăng Khoa và Trần Thị Mai, trên mảnh đất vợ chồng tôi đã và đang sử dụng”.
Theo giấy ủy quyền của bà Tạ Thị Vây, thì thửa đất số 113 đang có tranh chấp. Bà Mai và ông Khoa chứng minh có căn cứ pháp luật, đúng sự thật, thửa đất của ông, bà đang đề nghị được cấp sổ đỏ, không có tranh chấp, có nguồn gốc bố mẹ cho, không nằm trong quy hoạch dự án nào, đủ điều kiện để được cấp sổ đỏ theo Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, vì vậy đơn của ông Tú không có căn cứ để giải quyết, do bà Vây không chứng minh được mình tranh chấp với ai trong các thửa đất hiện tại.
Từ sự thật nêu trên, luật sư Nguyễn Huy Hoàng, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Trần Thị Mai, đã có văn bản kiến nghị gửi ông Chủ tịch UBND thành phố Hưng Yên, với nội dung: Đề nghị xem xét theo Điều 40 Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ, quy định xử lí kỉ luật với những người được giao xác minh nội dung khiếu nại, khi có những hành vi vi phạm pháp luật và Điều 6, Điều 7 Nghị định số 112/2020/NĐ-CP về xử lí kỉ luật cán bộ công chức, viên chức, đối với ông Bùi Việt Bắc, Chủ tịch UBND phường Hiến Nam; ông Trần Quốc Việt và bà Đỗ Thị Liên, công chức địa chính và tư pháp phường Hiến Nam, để răn đe những công chức coi thường chỉ đạo của cấp trên, vi phạm pháp luật, yếu kém về nghiệp vụ, là nguyên nhân gây mất niềm tin của Nhân dân vào chính quyền.