Tây Nguyên những âm thanh độc đáo
Văn hóa - Thể thao 16/04/2021 10:10
Dân tộc nào ở Tây Nguyên cũng có những dàn chiêng đồng. Chiêng có thể coi như tiếng nói tâm linh của con người, nó gắn bó với đời sống cộng đồng từ lúc mẹ cha làm lễ "thổi tai" cho đứa con yêu dấu mới ra đời, cho đến lúc đi về "bến nước làng Trời".
Mỗi dân tộc một âm điệu, mỗi dân tộc một cách diễn tấu khác nhau. Không ai biết các bộ chiêng của người Tây Nguyên có từ bao giờ, xuất xứ ở đâu. Nhưng tiếng chiêng ngân nga trong mọi lễ hội, luôn thể hiện tâm hồn và tính cách của các tộc người Tây Nguyên. Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên mà người ta chọn dàn chiêng Ê Đê làm đại diện cho "họ hàng nhà chiêng" các dân tộc Tây Nguyên tham dự Liên hoan Âm nhạc châu Á - Thái Bình Dương. Rồi lại lựa chọn 4 bài bản và một điệu hát Ây rây Ê Đê đưa vào kho tàng tinh hoa âm nhạc khu vực.
Một bộ chiêng Ê Đê có 10 chiếc. Ba chiếc có núm gọi là Ching, giữ vai trò là bè đệm cho hòa tấu. Bảy chiếc không có núm gọi là Knă, đảm nhận phần giai điệu chính (trừ chiêng Char). Thường người ta sử dụng có 9 chiếc, còn Ching Moong chỉ dùng khi có đám tang.
Tiết tấu chiêng Ê Đê nhanh, dồn dập, sôi nổi như thác reo, gió thổi. Điều đó đòi hỏi nghệ nhân diễn tấu phải rất điêu luyện mới có thể cùng hòa tấu được. Trường ca Đam San đã từng mô tả tiếng chiêng Ê đê: "Vút bay qua xà nhà vang lên tới 9 tầng mây xanh. Lọt qua sàn lan đến bảy tầng vực sâu đất đen...".
Một dàn chiêng khác cũng không kém phần độc đáo là chiêng Aráp của người Gia Rai. Một bộ chiêng Aráp có từ 7-10 chiếc: 3 chiêng núm giữ trách nhiệm phần đệm, còn lại là chiêng bằng. Đi đôi với chiêng Aráp bao giờ cũng có điệu múa Xoang. Người ta thường tăng số lượng những chiếc chiêng núm lên để làm cho phần đệm thêm đầy đặn, do đó có khi bộ chiêng núm đôi khi còn có bọc.
Múa Xoang Tây Nguyên |
Kế đến là những chiếc Tù Và. Các dân tộc ở Tây Nguyên đều sử dụng sừng trâu bò làm tù và. Người Ê đê gọi tù và là kipah; người MNông gọi là Nung; người Banar gọi T'diep... Chiếc sừng được cưa một đoạn ngắn, thủng cả hai đầu. Ở giữa, trên phần cong vào, khoét một lỗ nhỏ và đặt vào đó một chiếc "lưỡi gà" (như một chiếc dăm kèn), gắn lại bằng sáp ong. Khi thổi, tay trái cầm ngang thân kèn, ngón cái bịt đầu nhỏ, miệng ngậm vào "lưỡi gà". Tay phải day chặn ở đầu to để tạo ra những âm thanh khác nhau. Tiếng tù và dài hay ngắn, nhanh hay chậm là do điều khiển bằng lưỡi và luồn hơi, kết hợp với sự bịt mở các ngón tay ở cả hai đầu to nhỏ của tù và.
Đàn T'rưng luôn gắn bó với mọi sinh hoạt đời thường của các dân tộc Jrai, Banar, Xê đăng... Trên nương rẫy, tiếng T'rưng xua đi cái mỏi mệt của một ngày lao động "lưng ngửa, mặt sấp", báo cho bầy thú sự hiện diện của con người, khiến chúng sợ không dám đến phá rẫy.
Đàn Klông put là loại nhạc cụ rất đặc biệt của người Xê Đăng, Banar, Srá. Khác với T'rưng, Klông put là những ống nứa rỗng hai đầu. Tiếng Klông put khỏe khoắn, phóng khoáng, hơi bí ẩn xa xăm. Với loại đàn này, 2 người có thể chơi đàn cùng lúc, mỗi người vỗ một đầu. Đây là loại nhạc cụ chỉ có phụ nữ sử dụng.
Đàn T'rưng và Klông put đã được các nghệ sĩ chuyên nghiệp cải tiến, chơi được nhiều nốt đơn, những bài bản khó hơn. Dù biểu diễn ở trong nước hay quốc tế, khán giả luôn thể hiện sự yêu mến và khâm phục khả năng sáng tạo của các nghệ nhân Tây Nguyên.
Đàn Goong (còn gọi là Ting ning) dân tộc nào cũng có, cấu tạo cơ bản giống nhau, gồm một ống nứa có khoét lỗ để mắc dây đàn. Dây đàn trước đây làm bằng cật nứa, nay được thay bằng dây thép nhỏ. Đàn có từ 6-12 dây, tùy theo tài nghệ diễn tấu của nghệ nhân. Tiếng đàn goong thánh thót, có sức truyền cảm, những sợi dây đàn rung lên dưới bàn tay tài hoa của người con trai, là phương tiện tỏ bày tình yêu nam nữ.
Khó có thể chỉ nói đôi lời về kho tàng ca hát của các tộc người Tây Nguyên. Bởi dù là giai điệu rộn ràng hay dịu êm, khỏe khoắn hay trữ tình, tự sự hay hoan ca... mỗi bài là một sự sáng tạo ngẫu hứng đầy đam mê. Phong phú về thể loại, sâu sắc về nội dung, dí dỏm, thông minh, đôi khi cả thâm thúy trong ý tứ.
Hãy nghe người già Ê Đê dạy bảo con cháu: Măng nhớ lời cây le/ Tắc kè lớn nhờ cây cao/ Con lớn nhờ vào cha mẹ/ Người lớn nhờ có bạn bè ta trăm ngàn... . Hay lời chàng trai Gia Rai thở than khi xa cách người yêu: Chạm phải con đường xưa tim anh rũ rụng/ Chạm phải con đường mòn tim anh nóng bừng. Lời tỏ tình mãnh liệt của cô gái Mạ: Lược ngà anh dắt mái tóc xoăn/ Để em về đêm thương ngày nhớ/ Em muốn ôm anh vào trước ngực/ Như được đắp tấm chăn êm...
Chúng tôi đã đôi lần đến với Tây Nguyên dự các ngày vui của đồng bào các dân tộc. Đặc biệt sau ngày đất nước thống nhất còn có thêm 20 dân tộc anh em ở phía Bắc vào định cư. Bên cạnh dân ca dân nhạc của người bản địa còn có thêm tiếng sáo, khèn dân tộc Mông, tính tẩu dân tộc Tày Nùng… rồi dân ca Thái, Mường, Dao… góp thêm bản sắc nơi đây phong phú đa dạng, làm đẹp thêm kho tàng âm nhạc dân gian của Tổ quốc Việt Nam.