Gặp nghệ nhân duy nhất làm khuôn bánh Trung thu gỗ ở Hà thành
Phóng sự 30/09/2020 13:49
40 năm nặng lòng với nghề
Đến làng nghề Thượng Cung (xã Tiền Phong, Thường Tín, Hà Nội) hỏi "ông Bản khuôn bánh" từ trẻ nhỏ đến người già không ai là không biết. Ông Trần Văn Bản gần 40 năm nay nổi tiếng với nghề làm khuôn bánh Trung thu bằng gỗ. Ông không chỉ giữ nghề mà còn sáng tạo ra những hình khuôn độc đáo, mới lạ, mà còn làm ra những chiếc khuôn đẹp, to kỷ lục.
Dù ông bà, cha mẹ không ai làm nghề mộc nhưng từ khi còn nhỏ chàng thiếu niên Trần Văn Bản đã có niềm đam mê với những chiếc đục, mảnh gỗ. Sau đó, ông bén duyên với nghề đục đẽo khuôn bánh trung thu.
Mỗi lần làm được mẫu bánh mới cho khách ông Bản lại thấy vô cùng phấn khích. |
Cứ sát ngày Trung thu, ông Bản lại cặm cụi hoàn thành những chiếc khuôn bánh để giao cho khách theo đơn đã đặt. Ông Bản bảo, gỗ làm khuôn là phải để phơi trước đó nhiều ngày để không còn bị co ngót. Sau đó mới đưa máy cưa thành những khối chữ nhật vuông thành sắc cạnh. Sau đó lại để gỗ tiếp tục dầu dãi mưa nắng rồi mới kẻ, vẽ và lượn lưỡi cưa để tạo hình dáng cơ bản ban đầu.
Vừa tiếp chúng tôi, ông bản vừa thoắt thoắt tay dùi, tay đục, xung quanh ông là cả trăm loại đục đủ kích cỡ khác nhau. Trên giá, treo rất nhiều khuôn bánh, hầu hết mỗi khuôn là một mẫu riêng. Đưa cho chúng tôi xem một mẫu bánh Trung thu, ông Bản nói: “Không phải tất cả các mẫu đều do tôi nghĩ ra đâu. Rất nhiều mẫu trong số này là khác chuyển cho tôi và nhờ tôi làm đấy”.
Ông Bản học nghề từ bé, bởi làng ông vốn có nghề mộc lâu đời, nên trẻ con, từ khi sinh ra đã quen với những tiếng lạch cạch, lách cách.
Hàng trăm mẫu khuôn bánh Trung thu được ông Bản hoàn thành. |
Ông Bản nói chuyện chân chất: “Thấy các cụ làm khuôn bánh Trung thu thì tôi cũng học làm theo thôi. Khó. Nhưng dần dần cũng vỡ ra được, và quen. Khi đã quen, đã thạo nghề rồi, thì bất cứ ai, chuyển cho ông bất kỳ mẫu nào, ông đều làm được”.
Sau gần bốn mươi năm duy trì làm khuôn bánh, đến giờ ngoài những mẫu truyền thống như hoa cúc, hoa sen, cá chép…, ông Bản còn “trổ” khuôn hình rùa, hình hoa xếp tầng, thậm chí cả hình chùa Một Cột.
Nhìn những nhát dùi vạy xuống, từng thớ gỗ bung ra, cong cong như những cánh hoa. Chúng tôi thắc mắc mãi: “Làm thế nào để ông đục được cái khuôn đúng với trọng lượng của bánh”. Ông Bản giải thích: “Có “công thức” hết chứ, ví dụ bánh hình vuông, nặng 400g thì đục sâu bao nhiêu cm. Bánh cá chép phần vảy sâu nhất sẽ là bao nhiêu, rồi đục nông dần về phía đuôi cá để khi cá thành hình sẽ có độ cong, đẹp”.
Lại hỏi quen tay như ông thì mới đục thẳng và “đo” theo kinh nghiệm được, chứ những người mới làm thì thế nào? Con gái ông Bản thuộc thế hệ 9X - một trong ba đứa con đang nối nghề làm khuôn của ông - cười giòn tan: “Chưa quen thì vừa đục vừa dùng thước đo, làm không nhanh được. Chứ khi đã quen tay, thì em cứ thế đục thôi”.
Làm vì thấy vui
Bà Phạm Thị Tâm - vợ ông Bản xé giấy ráp để đánh cho mịn từng họa tiết dưới khuôn. Có chỗ hoa văn mảnh, sâu, bà phải gấp nhỏ mảnh giấy, cẩn thận đẩy xuống và đánh. Bà Tâm vừa đánh giấy ráp vừa giải thích: “Khuôn bánh nướng và khuôn bánh dẻo làm khác đấy nhau. Bánh nướng phải làm đều nét, để khi nướng lớp vỏ bên ngoài bắt lửa đều không bị cháy hay vàng không đều”.
Năm ngoái, một thương hiệu trên phố đặt ông Bản làm khuôn cho chiếc bánh Trung thu nặng đến 1.5 tạ. Đường kính lớn quá, chẳng thân gỗ nào đủ để làm nguyên khối, ông Bản phải làm từng phần rồi ghép lại với nhau. Nhắc đến chiếc khuôn kỉ lục đó, ông Bản nhăn trán: “Làm khuôn ghép khó lắm, vì yêu cầu các đường nét “trổ” phải khớp với nhau đến mức khi ghép lại, không ai nghĩ đó là khuôn ghép”.
Một mẫu bánh Trung thu truyền thống đang được ông Bản hoàn thiện. |
Cuối buổi, bà Tâm hì hụi dọn lại những khuôn bánh đủ kích cỡ, đủ các mẫu chạm trổ. Thoăn thoắt đôi tay, bà bảo: “Trước đây làm khuôn bánh Trung thu quanh năm. Quanh làng cũng nhiều người làm lắm. Nhưng mấy năm nay khuôn nhựa tràn gập, các nhà bỏ nghề hết, chỉ còn lại nhà tôi”.
Quần xắn móng lợn, xếp những khuôn gỗ đã ngả màu thời gian vào thùng, bà Tâm thật thà: “Dọn chỗ này đi để làm những thứ khác, đóng cũi trẻ em, đóng ghế cũng không hết việc đâu. Làm khuôn bánh Trung thu bây giờ chỉ theo thời vụ. Trước làm quanh năm, sau làm từ tháng Giêng đến đầu tháng Tám âm lịch. Mấy năm nay thì chỉ làm từ tháng Năm, mà đấy là có mỗi nhà tôi làm. Mà những cái khuôn cũ rỉnh như này có khi bán lại được giá hơn các khuôn mới đấy. Hôm vừa rồi có người về hỏi mua cả trăm khuôn bánh Trung thu cũ, càng cũ càng tốt. Lạ nhỉ!”
Hỏi làng bỏ nghề hết rồi, sao ông bà vẫn kiên trì đến thế, mỗi ngày làm được ba chiếc cỡ phổ thông, thì sống làm sao? Ông Bản bảo: “Còn người đặt thì tôi còn làm. Ngoài những lúc làm khuôn bánh thông thường, làm được những mẫu đặc biệt cho khách xong, thấy vui lắm”.
Bà Tâm có vẻ “ham vui” hơn, bà khoe: “Như năm ngoái làm xong cái khuôn bánh 1.5 tạ, người ta cứ mời hai vợ chồng - tác giả khuôn bánh lên. Thỉnh thoảng tận trong Sài Gòn cũng mời chúng tôi vào đấy. Bây giờ người dùng khuôn gỗ truyền thống giảm rất nhiều. Nhưng những người đã dùng, hình như người ta cũng tinh hơn, kén hơn”.
Nghe người phụ nữ quanh năm phụ chồng làm mộc, chăn lợn, trồng rau màu ấy gật gù nói vậy, chúng tôi chợt nhận ra. Gía trị của chiếc bánh Trung thu truyền thống, không chỉ bởi người làm bánh, mà còn bởi đôi tay những người thợ đặc biệt như ông Bản và gia đình ông đã trổ vào khuôn bánh những nét tài hoa của mấy trăm năm làng nghề.