Viết tiếp bài về khiếu nại của thương binh Võ Văn An: UBND thị trấn Nam Đàn thu hồi đất thiếu chứng cứ
Pháp luật - Bạn đọc 17/07/2018 11:16
Quyết định của UBND thị trấn Nam Đàn giải quyết khiếu nại là thiếu cơ sở pháp lí?
Sau khi bị UBND thị trấn Nam Đàn thu hồi ruộng của mình, ông Võ Văn An đã làm đơn khiếu nại gửi UBND thị trấn Nam Đàn, phản ánh việc chính quyền thu hồi ruộng của ông là hoàn toàn vô lý. Sau nhiều lần đối thoại không thành, ngày 25/5/2017, UBND thị trấn Nam Đàn đã ban hành Quyết định số 43/QĐ-UBND, về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Võ Văn An. Quyết định này bộc lộ nhiều bất cập và thiếu cơ sở pháp lý. Cụ thể:
1. Căn cứ để ban hành Quyết định số 43/QĐ-UBND của UBND thị trấn Nam Đàn gồm: "- Căn cứ vào Luật Khiếu nại tố cáo;Căn cứ Nghị định số 75/2012 NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật khiếu nại; Căn cứ theo Thông tư số 07/2013/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; Căn cứ theo Quyết định số 26/QĐ-UBND của UBND thị trấn Nam Đàn về việc kiểm tra xác minh đơn khiếu nại của ông Võ Văn An". Mặc dù là quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai, nhưng trong quyết định lại không có một điều khoản nào liên quan đến Luật Đất đai và các Văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
2. Kết quả kiểm tra xác minh khiếu nại ghi trong Quyết định suố 43 như sau: "Ý kiến của ông Võ Thăng Long tại buổi làm việc. Ông Long được ông Thắng giao thửa đất số 22 tại xứ đồng Khai Hoang diện tích 632 m2 canh tác từ năm 2003 đến năm 2010. Năm 2010 có chủ trương thu hồi xây dựng trụ sở Công an huyện, ông Long mới đổi cho ông An…Ý kiến ông Võ Đình Thắng, nguyên khối trưởng khối Đan Nhiệm, nguyên trưởng tiểu ban chuyển đổi ruộng đất khối Đan Nhiệm năm 2002-2003. Trong quá trình thực hiện chuyển đổi ruộng đất, tổ chuyển đổi đã để sót thửa đất số 22 diện tích 632 m2, ông Thắng là người trực tiếp giao thửa đất số 22 cho ông Long nhận khoán để lấy tiền chè nước cho khối. Việc ông An canh tác trên thửa ruộng số 22 là do ông Long đổi cho ông An, ông Thắng không biết". Có thể thấy, căn cứ để UBND thị trấn ra Quyết định thu hồi ruộng của ông An là những lời làm chứng "bằng miệng" của ông Long và ông An. Hai ông này chỉ làm chứng bằng miệng chứ tuyệt đối không có một giấy tờ, sổ sách, bằng chứng pháp lý.
3. Căn cứ thứ 3 mà UBND thị trấn Nam Đàn lấy làm cơ sở để thu hồi ruộng đã được cấp bìa đỏ của ông An là: "Gia đình ông Võ Văn An bốc thăm nhận ruộng gồm 6 thửa bằng 2.800 m2 + 231 m2 trước ngõ = 3.031. Đất vườn đưa vào cân đối quỹ đất nông nghiệp, ông An có 699 m2. Tổng diện tích đất nông nghiệp của ông An là: 3.031+ 699 = 3.370 m2". Điều cực kỳ vô lý ở đây là năm 1995, gia đình ông An được cấp GCNQSDĐ gồm 4.379 m2. Trong đó; Đất sản xuất nông nghiệp 3.480 m2; đất ở + vườn 899 m2.
Phải chăng để thu hồi ruộng của ông An (Quyết định 43), UBND thị trấn Nam Đàn đã "tự tiện" chuyển đổi đất vườn có thời hạn ghi trong bìa đỏ là "LÂU DÀI" thành đất sản xuất nông nghiệp “CÓ THỜI HẠN”, hợp thức hóa 633 m2 ruộng của ông An ở xứ đồng Khai Hoang là đất của UBND Thị trấn?.
Những bằng chứng mới
Như trên đã nói, sau khi báo đăng 2 ngày đã có hàng ngàn lượt chia sẻ và hàng chục cuộc gọi của nhân dân Thị trấn Nam Đàn cho tác giả, ngoài chia sẻ, nhiều người còn cung cấp nhiều bằng chứng quan trọng chứng minh thửa ruộng số 22 là của ông An.
Hồ sơ bốc thăm ruộng của ông An được ông Phạm Xuân Cường thành viên tổ chuyển đổi ruộng đất năm 2003 của
khối Đan Nhiệm lưu lại
Để khẳng định thêm bài viết chúng tôi xin nêu ra đây một số dẫn chứng cụ thể. Trong Thông báo số 23/TB - UBND ngày 8/5/2016. Quyết định số 43 của UBND Thị trấn Nam Đàn đều ghi " Thửa số 22 tại xứ đồng Khai Hoang dư dôi không chia thăm mà cho ông Võ Thăng Long canh tác để trừ chi phí chè nước". Trong Công văn số 1625/UBND-TNMT ngày 23/9/2016 của UBND huyện Nam Đàn ghi " Sau chuyển đổi ruộng đất năm 2003 đến năm 2010 thửa số 22 được BCH khối để ngoài sổ sách chưa giao cho ai mà BCH khối hợp đồng với ông Võ Thăng Long sản xuất để làm quỹ khối phục vụ các hoạt động tại khối từ 2003 đến 2010". Nếu đúng như nội dung thông báo số 23/TB và Công văn số 1625/UBND thì việc thị trấn Nam Đàn để đất canh tác không chia cho dân “để trừ chi phí chè nước” là vi phạm nghiêm trong Luật Đất đai, cần phải xử lí nghiêm minh theo pháp luật.
Trưởng khối Đan Nhiệm ông Võ Thăng Long khẳng định, từ năm 2003 đến năm 20010, ông không ký hợp đồng với khối và không có chuyện hàng năm phải nộp quỹ cho khối trên thửa ruộng số 22 xứ đồng Khai Hoang.
Để chứng minh cho việc khối hợp đồng với ông Long sản xuất để làm "tiền chè nước", chúng tôi đã trực tiếp đến gặp ông Võ Thăng Long, Khối trưởng khối Đan Nhiệm. Trả lời câu hỏi: Trong các văn bản trả lời của UBND Thị trấn và UBND huyện đều nói từ năm 2003 đến năm 2010, khối Đan Nhiệm hợp đồng với ông sản xuất trên thửa ruộng số 22 xứ đồng Khai Hoang để làm chè nước. Vậy ai ký hợp đồng với ông, sản lượng một năm ông nộp cho khối là bao nhiêu. Ông Long cho biết: "Không… Có hợp đồng chi mô (đâu), và có phảỉ nộp chi mô (đâu)". Để cho chắc chắn, chúng tôi hỏi thêm lần nữa và vẫn nhận được câu trả lời như vậy
.
Ông Phạm Xuân Cường và bản kê ruộng được chia của từng hộ trong khối, trong đó có thửa ruộng số 22 của ông Võ Văn An.
Người thứ hai mà chúng tôi đến là ông Phạm Xuân Cường, Cấp ủy Chi bộ khối, nguyên Khối trưởng, nguyên thành viên tổ chuyển đổi ruộng đất Khối Đan Nhiệm. Là thành viên chuyển đổi ruộng đất Khối Đan Nhiệm năm 2003, nên ông Cường còn lưu giữ đầy đủ sổ sách, tài liệu chuyển đổi ruộng đất năm 2003 khá rõ. Ông Cường cho chúng tôi xem bản gốc có đóng dấu treo của UBND thị trấn ghi chi tiết số thăm nhận ruộng của từng hộ. Theo đó, hộ ông An bắt được thăm số 12. Sau chuyển đổi, cân đối lại ruộng đất so với diện tích ban đầu, hộ ông An thiếu 633 m2 và đã làm đơn xin cấp thêm cho đủ diện tích. Trong khối, không riêng gì ông An thiếu mà còn có 4 hộ khác cũng thiếu ruộng. Để đảm bảo quyền lợi cho các hộ đó, Tổ chuyển đổi đã trực tiếp đi chỉ ruộng cho từng hộ (vì chỉ có 5 hộ nên không phải bắt thăm)." Ruộng chỉ cụ thể gồm: Anh Võ An. Số 22 = 633m2. Anh Danh, số 231= 399 m2. Ông Võ Tạo,số 249=532 m2. Chị Ngụ = 300m2.Anh Hậu, 370 m2". (Ghi lại đúng theo danh sách trong hồ sơ chia ruộng của ông Cường).
Về việc chuyển đổi thửa ruộng số 22 cho ông Long sản xuất để lấy tiền “chè nước họp khối”, ông Cường cho biết: "Hoàn toàn không có chuyện đó, bởi vì, ruộng đã chia cho ông An rồi thì lấy diện tích đâu mà hợp đồng với ông Long. Hơn nữa giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2008, Hợp tác xã đang hoạt động nên hàng năm, các khối tổ chức họp đều được Ban quản lý Hợp tác xã chi tiền chè nước cho họp khối. Hằng năm, trong sổ sách thu sản phẩm của khối, ông An đều đóng nghĩa vụ bằng lúa trên thửa ruộng số 22, thể hiện trong các hóa đơn chứng từ thì làm sao ông Long lại phải nộp cho quỹ xóm nữa. Nếu ông Long nộp thì chẳng lẽ một thửa ruộng lại thu hai lần phí là không đúng".
Qua các chứng cứ pháp lý như: Sổ đỏ, tài liệu tại tổ chuyển đổi ruộng đất, hồ sơ giấy tờ ông An còn lưu giữ được, những cán bộ qua các thời kỳ đều khẳng định; Thửa đất số 22 xứ đồng Khai Hoang thuộc quyền sử dụng của ông An là đúng. Như vây, sự việc mất ruộng một cách vô lý của gia đình thương binh Võ Văn An, Nhân dân trong khối Đan Nhiệm đều biết, cán bộ, đảng viên ở thị trấn Nam Đàn đều biết, nhưng chỉ có một số cán bộ ở UBND Thị trấn Nam Đàn là không biết!?.
Nguyễn Hữu Mai