Triền cát quê ngoại

Văn hóa - Thể thao 09/03/2018 10:45
Quả nhiên, năm Nhâm Dần đời vua Thiệu Trị (1842) ông thi đỗ cử nhân. Hai năm sau ông dự thi Hội khoa Giáp Thìn (1844), đỗ Phó bảng, được bổ chức quan Hàn lâm viện hiệu thảo. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) ông được thăng chức Đồng tri phủ Ứng Hòa. Ông luôn để tâm giữ mình, lo chính sự, không vướng bận chuyện lo sản nghiệp cho con cháu. Ông là tấm gương, răn dạy: “Con cháu ta hãy cẩn thận giữ lấy thói nhà, ấy là điều ta mong mỏi”. Ít lâu sau, năm Tự Đức thứ 2 (1849) ông được thăng chức Đốc học Sơn Tây. Ông là người rất tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nơi nhậm chức, có nhiều học trò thành đạt. Hoàng giáp Lê Tử Cấn người quê Hạnh Thi, một học trò đánh giá về ông như sau: “Sĩ thứ Sơn Tây biết cách học là khởi đầu từ tiên sinh”. Bia đá “Kim bảng lưu phương quốc triều” thời Nguyễn ghi về ông cũng có chữ “tiên sinh” trân trọng: “Giáp Thìn khoa Phó bảng Vạn Ty Nguyễn Phẩm tiên sinh, đốc học” (ý nói nhiều vị đốc học khác trên văn bia không được ghi chữ “tiên sinh” như vậy).
Tuy nhiên, quan đốc học Nguyễn Phẩm làm quan mới được 4 năm, năm Quý Sửu (1853) ông cáo quan về quê dưỡng bệnh. Tổng đốc Ngụy Khắc Tuần cố giữ lại để sĩ thứ trấn Sơn Tây nhờ cậy nhưng không được. Ngài tổng đốc đánh giá: “Làm quan học chính được như tiên sinh chẳng có mấy người”. Về quê dưỡng bệnh gia cảnh liền lâm vào túng bấn. Khi đương chức một năm chỉ được nhận 40 quan tiền với 43 phương gạo đã phải sống tằn tiện lắm rồi. Nhưng ông luôn sống hòa đồng, giữ lễ với mọi người, không kể sang hèn. Mái nhà nghèo được bạn bè tìm đến đàm đạo thơ phú, chữ nghĩa và lấy tên “Thai đình chân suất hội” làm trụ sở hội họp. Nghe tin quan đốc học về quê, học trò trong vùng lũ lượt tìm đến xin theo học. Nhà chật không có chỗ ngồi, học trò tự góp tiền dựng lớp. Ông dạy học chỉ cầu học trò hiếu đễ, thành đạt chứ không đòi hỏi đóng góp nuôi thầy. Ông luôn quan niệm dạy chữ đi cùng dạy người. Dạy chữ tuy theo mực thước nhưng vẫn loại bỏ điều phù phiếm và truy đến ngọn nguồn kiến thức. Học trò ông sau này nhiều người đỗ đạt, tận trung với nước, tiêu biểu như danh nhân Nguyễn Cao, Tán lí quân vụ, một yếu nhân phong trào Cần Vương.
Sắc phong Phó bảng Nguyễn Phẩm
Phạm Thuận Thành