Tục giã và cúng bánh dày ngày Tết của đồng bào Mông
Văn hóa - Thể thao 10/01/2024 09:12
Có từ thời vua Hùng thứ 6, bánh chưng và bánh dày song hành cùng lịch sử dân tộc và trở thành linh hồn ngày Tết ở Bắc Bộ. Trong mâm cỗ đón Tết ngày nay, những chiếc bánh chưng xanh vuông vắn khiến ta nhớ đến sự tích bánh chưng, bánh dày tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa.
Ngày xưa, bánh được làm vào dịp Tết cổ truyền và ngày 10/3 âm lịch (ngày giỗ Tổ Vua Hùng).
Bắc Hà là huyện vùng cao nằm ở Đông Bắc tỉnh Lào Cai, có 14 dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Mông chiếm 47,25% dân số. Người Mông Bắc Hà ăn Tết cổ truyền theo lịch âm như người Kinh. Suốt từ đầu tháng 12 âm lịch đến giáp Tết là thời điểm người Mông mổ lợn, một phần mời anh em họ hàng, bạn bè đến ăn Tết. Còn 30 Tết là ngày quan trọng nhất để dọn dẹp nhà cửa, sửa sang bàn thờ tổ tiên, làm lễ cúng tất niên và đây cũng chính là ngày hội giã bánh dày của người Mông.
Lễ hội bánh dày của đồng bào Mông |
Ông Tráng A Vu, người có uy tín trong cộng đồng người Mông xã Tả Văn Chư, huyện Bắc Hà cho biết: “Cùng với con gà trống tơ- vật cúng quan trọng nhất của người Mông, dùng long quệt vào tiết con gà này dán lên bàn thờ, thì bánh dày là vật cúng quan trọng thứ 2 trong mâm cúng ngày Tết, thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, cha ông, đất trời đã phù hộ cho mùa màng bội thu, con người có sức khỏe, cuộc sống bình yên, ngày càng ấm no”.
Tiếng Mông, bánh dày có tên gọi là "dúa pả”. Đồng bào Mông quan niệm: Bánh dày tượng trưng cho đất trời và sự an lành, no ấm, mùa màng bội thu. Bánh dày có 2 loại (bánh dày trắng không nhân và loại bánh dày có nhân là đậu xanh và sợi dừa). Ở Bắc Hà, người Mông thường làm loại bánh dày trắng không nhân.
Vào vụ mùa, người Mông chọn một khu ruộng hay nương tốt nhất để cấy lúa nếp. Có 2 loại lúa nếp hay trồng, nếu thóc nếp ruộng thì gạo có màu trắng, thóc nếp nương gien gốc vùng cao thì gạo có màu đỏ nhạt, gần giống như màu gạo khẩu nậm xít, song cả 2 loại này đều dẻo, thơm.
Chiều tối 30 Tết, khắp bản làng người mông ở lưng chừng đồi núi vốn yên lặng đồng loạt vang lên những tiếng bụp bụp liên hồi giã bánh dày, từng nhịp, từng nhịp nghe thật vui tai, khắp bản làng tràn ngập tiếng nói, cười vui. Đây cũng là lúc trai bản, thôn nữ Mông rủ nhau đến từng nhà một giúp giã bánh dày Tết, giao lưu, hát dân ca giao duyên, không khí thật tưng bừng, sôi động vì vậy người ta còn gọi ngày này là ngày hội giã bánh dày.
Ông Tráng A Vu cho biết, về cách làm bánh dày của người Mông Bắc Hà. Gạo đồ cơm làm bánh dày được giã thủ công, nên khi phơi sấy cũng phải đủ nhiệt độ; nghĩa là không quá nắng để hạt gạo không gãy nát, thơm ngon, vẫn còn lớp màng mịn bám ngoài hạt gạo tăng hương thơm cho bánh. Nếp được đồ chín, hơi cơm tỏa thơm khắp bản (mỗi mẻ giã bánh dày tùy theo người làm, song thường là 10 kg nên phải đồ cùng lúc 2 chõ xôi).
Chõ xôi được đổ cả vào cối giã nhuyễn khi hơi cơm vẫn nghi ngút bốc, hương thơm cơm mới quyến rũ lan tỏa. Cối giã bánh dày được làm bằng thân cây gỗ chắc, thớ mịn, có mùi thơm và khoét rỗng ruột như thuyền độc mộc. Chày giã bánh dày có 2 đầu, cán ở giữa, quá trình giã được xoa mỡ chống dính. Những thanh niên khỏe mạnh, trai tráng được chọn giã bánh dày, còn phụ nữ chuẩn bị lá gói bánh. Những tàu lá giong rừng xanh đậm, được rửa sạch bằng nước suối đầu nguồn, lau khô bằng khăn sạch. Quá trình giã, các thanh niên khéo léo dùng chày đẩy dồn cuộn cơm dẻo về một phía sau đó giã lại theo chiều "cuốn chiếu" để cơm nhuyễn đều.
Cơm càng giã kĩ càng dẻo, tạo thành bột trắng mịn, dính quyện lấy nhau. Lúc này các thanh niên gác chày, nhường công đoạn gói bánh cho phụ nữ. Những cuộn xôi được giã mịn màng, trắng ngần, còn nóng hổi được vo tròn, xếp vào lá dong hay lá chuối.
Ông Tráng A Vu cho biết, ngay sau khi bánh dày được giã xong còn nóng hổi, thơm hơi nếp, người chủ gia đình họ Mông và các gia đình họ khác cũng đều làm lễ cúng. Ông chủ nhà đặt chiếc bánh dày vào lá chuối tươi, bày lên chiếc mẹt, trang trọng để lên chiếc bàn đặt dưới bàn thờ tổ tiên, làm lễ cúng gọi là “cúng bánh dày”, cầu cúng tạ ơn tổ tiên, ông trời đã phù hộ cho một năm mùa màng bội thu, con cháu khỏe mạnh và mời các cụ, tổ tiên về ăn Tết với người Mông. Sau lễ cúng bánh dày, người Mông bắt đầu làm bàn thờ và cúng gà.
Bánh dày cũng chính là món ăn đặc sản, hương vị Tết riêng của người Mông nói chung và người Mông Bắc Hà. Bánh dày làm công phu nhưng để được rất lâu, ở vùng đồng bào dân tộc Mông Bắc Hà có khí hậu đặc trưng ôn đới nên có thể để bánh dày hàng tháng trời.