Tỉnh Đồng Nai: Một vụ án có nhiều dấu hiệu sai phạm trong tố tụng!
Pháp luật - Bạn đọc 26/07/2019 14:35
Một góc Dự án khu dân cư Tam Phước, TP Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai của Công ty SGCC |
Tóm tắt nội dung vụ án
Công ty SGCC có 4 thành viên sáng lập: Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, ông Đặng Đức Trung và Hoàng Quốc Võ. Trong đó, ông Nguyễn Văn Tình giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc và vợ là bà Nguyễn Thị Chí Sương có 8% cổ phần, trụ sở công ty tại 244 Phạm Văn Hưởng, phường Tho Điền, quận 2, TP Hồ Chí Minh.
Để thực hiện Dự án khu dân cư Tam Phước, TP Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai của Công ty SGCC, ông Tình, bà Sương đưa 10,2 ha đất có sổ đỏ đứng tên ông Tình, bà Sương vào Dự án và đã nhận tiền đền bù xong. Công ty đã tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng trên 10,2 ha đất này, trong tổng số 157 ha đất của Dự án, được UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt tờ bản đồ 1/500 về quy hoạch chi tiết. Ông Tình, bà Sương đại diện Công ty đứng ra nhờ ông Lê Đình Tài lo thủ tục. Ông Tài đã nhận của ông Tình, bà Sương gần 30 tỉ đồng để làm thủ tục. Đồng thời ông Tài còn bắt ông Tình, bà Sương kí nhận nợ tiền dịch vụ lo dự án, lãi đẻ lãi lên đến 61 tỉ đồng. Sau khi kí nhận tiền, ông Tài đã tố cáo ông Tình, bà Sương chiếm đoạt tài sản của ông Tài, nhằm đưa ông Tình, bà Sương vào tù để chiếm đoạt 10,2 ha đất dự án. Bằng chứng là Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tuyên cho ông Tài được hưởng 10,2 ha đất của dự án qua các bản án sơ thẩm lần 1 và 2; bản án phúc thẩm của TAND Cấp cao đã bác nội dung này, nhưng lại tuyên tiếp tục kê biên 10,2 ha đất của Công ty SGCC để bảo đảm thi hành án (bản án tuyên ông Tình, bà Sương phải trả ông Tài 61 tỉ, nhưng lại kê biên đất của Công ty SGCC).
Sự việc xảy ra tại TP Hồ Chí Minh, nhưng ông Tài đề nghị các cơ quan tố tụng Đồng Nai giải quyết là không đúng thẩm quyền, thiếu khách quan và đã tuyên phạt Nguyễn Văn Tình 18 năm tù, bà Nguyễn Thị Chí Sương 14 năm tù. Trong khi đó, ông Lê Đình Tài đã xin lại dự án của ông Tình, bà Sương cho Công ty của con ông (Công ty Lê Sơn Thịnh); móc nối với cơ quan thi hành án tỉnh Đồng Nai kê biên lô đất 10,2 ha và bán đấu giá với giá rẻ chỉ 13 tỉ đồng, để con ông Tài mua lại (Hiện đất đã được cấp sổ đỏ mang tên ông Tài).
Hình sự hóa quan hệ dân sự
Tòa án quy kết ông Tình, bà Sương phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là không phù hợp pháp luật, bởi 4 lí do sau:
Một, Công ty SGCC đang hoạt động bình thường, thực hiện dự án 157 ha đất, đã thi công cơ bản. Trị giá đất của 10,2 ha nói trên, lên đến 300 tỉ đồng, do đó ông Tình, bà Sương đủ khả năng trả nợ cho ông Lê Đình Tài, nếu thật sự nợ 61 tỉ đồng. Nhưng các cơ quan tố tụng đã cố tình không định giá 10,2 ha đất đầy đủ, nên quy kết ông Tình, bà Sương không có khả năng trả nợ. Mặt khác ông Tình, bà Sương đang tham gia làm dự án không hề trốn tránh các khoản nợ của vợ chồng ông Tài. Đồng thời không có cơ sở nào quy kết ông Tình, bà Sương gian dối, các giấy tờ vay tiền ông Tình, bà Sương đều kí nhận cam kết trả ông Tài.
Hai, đây là quan hệ dân sự vay tiền thông thường nhưng bị các cơ quan tố tụng Đồng Nai hình sự hoá các quan hệ này. Cụ thể: Vợ chồng ông Tài cho vay lấy lãi suất cao, trong 2 bản án cũng thể hiện rõ điều này. Tại trang 5, 6 của Bản án phúc thẩm số 274/2015/HSPT có thể hiện nội dung 5 lần cho vay tiền của vợ chồng ông Tài đều có lãi suất lần lượt là vay 8 tỉ lãi 3%/tháng, vay 20 tỉ lãi 2%/tháng, vay 2,5 tỉ lãi 4%/tháng, vay 13,56 tỉ lãi 3%/tháng, vay 8,7 tỉ lãi 4%/tháng và tính lãi mẹ đẻ lãi con. Thực chất số tiền này là tiền ông Tài lo cấp phép dự án và công lao từng thời gian. Công ty SGCC có ghi rõ mục đích vay mượn để thực hiện dự án và khi dự án đang được triển khai thì ông Tình, bà Sương bị bắt nên mới đình trệ. Ông Tình, bà Sương chưa có bất kì hành vi nào thể hiện từ chối trả tiền lãi cũng như tiền gốc cho việc vay mượn nói trên.
Ba, khoản tiền mà ông Tài cho vay là cho Công ty SGCC vay, chứ không phải cá nhân vợ chồng Tình, Sương vay. Các khoản tiền mà ông Tình, bà Sương vay đều ghi rõ mục đích vay là để đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật dự án Khu dân cư Tam Phước của Công ty SGCC đầu tư thực hiện. Khoản tiền mà ông Tài cho vay được chuyển vào tài khoản của Công ty TNHH Xây dựng-Thương mại- Dịch vụ Sài Gòn Cây Cảnh (sau này thay đổi thành Công ty SGCC). Điều đó cho thấy khoản tiền vay này không phải cho cá nhân ông Tình, bà Sương vay, nhưng cả hai bản án đều quy kết cá nhân ông Tình, bà Sương vay và phải trả nợ.
Bốn, mặt khác vợ chồng ông Tình, bà Sương cũng không bỏ trốn và cũng không có hành vi lừa dối ông Tài, mà có nhà cửa, nơi ở ổn định tại TP Hồ Chí Minh. Vậy việc kết tội ông Tình, bà Sương là đã hình sự hóa quan hệ dân sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử thể hiện có nhiều dấu hiệu thể hiện mục đích của cơ quan tố tụng chính là tuyên lấy dự án của ông Tình, bà Sương để giao cho ông Tài. Khi vợ chồng Tình, Sương đang bị giam giữ tại trạm giam, đại diện Viện Kiểm sát và Công an Đồng Nai đã dẫn giải bắt ông Tình, bà Sương đi giao đất 10,2 ha cho ông Tài (trong khi 10,2ha đất này là của Công ty SGCC); hai bản án sơ thẩm lần 1 và 2 đều tuyên giao đất là hợp lệ, hai bản án phúc thẩm lần 1 và 2 đều hủy nội dung này.
Mặt khác, những chứng cứ có lợi cho vợ chồng ông Tình, bà Sương đều bị cơ quan điều tra bỏ qua như: Ông Tình, bà Sương đã mua cho ông Tài 2 xe ô tô 12 tỉ đồng; tổng số các lần kí nhận nợ diễn ra liên tiếp nhau, ông Tài không dại gì giao tiền cho ông Tình, bà Sương dồn dập như vậy được, mà những lần giao tiền thật ông Tài đều chuyển khoản, số lần chuyển khoản cách rời nhau, không liên tiếp như các lần kí nhận nợ.
Trụ sở Công ty cổ phần Sài Gòn Cây Cảnh |
Và thêm nhiều dấu hiệu sai phạm trong tố tụng!
Sai phạm về thẩm quyền: Công ty SGCC đang có trụ sở tại 244 Phạm Văn Hưởng, phường Thảo Điền, quận 2, TP Hồ Chí Minh, mọi giao dịch đều diễn ra tại đây. Cụ thể ông Lê Đình Tài cho vay tiền tại TP Hồ Chí Minh bằng tiền mặt và chuyển khoản vào Công ty SGCC có trụ sở tại quận 2, TP Hồ Chí Minh. Do đó việc các cơ quan tố tụng Đồng Nai thụ lí và xét xử là sai thẩm quyền theo quy định của luật tố tụng hình sự: Vụ việc xảy ra ở đâu thì điều tra, truy tố xét xử tại nơi xảy ra vụ việc.
Nhầm lẫn pháp nhân và cá nhân: Vợ chồng ông Lê Đình Tài chuyển tiền vào Công ty SGCC và giấy ghi nợ mục đích vay là đầu tư vào dự án của Công ty SGCC, thì chính pháp nhân phải trả tiền cho vợ chồng ông Tài. Nhưng bản án lại tuyên cá nhân vợ chồng ông Tình, bà Sương phải trả cho ông Tài trong khi pháp nhân có 4 thành viên sáng lập gồm Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương, Đặng Đức Trung và Hoàng Quốc Võ.
Bản án tuyên cá nhân ông Tình, bà Sương phải trả cho vợ chồng ông Tài số tiền 61 tỉ đồng, nhưng lại kê biên tài sản 10,2 ha đất tại khu dân cư Tam Phước, Biên Hòa của Công ty SGCC. Trong khi, khu đất 10,2 ha đang kê biên là của Pháp nhân Sài Gòn Cây Cảnh thể hiện qua: Quyết định (QĐ) thu hồi đất số 626 của UBND tỉnh Đồng nai; QĐ thu hồi đất số 627 của UBND huyện Long Thành; giấy xác nhận số 1460, 5863 ngày 9/6/2010 về hoàn thành công tác bồi thường các lô đất để làm dự án Khu dân cư Tam Phước; giấy xác nhận số 11394 ngày 9/6/2010 của UBND TP Biên Hòa xác nhận hoàn thành công tác bồi thường; QĐ số 4027/QĐ-UBND phê duyệt Quy hoạch chi tiết 1/500 của UBND tỉnh Đồng Nai; Công văn số 1322/SKHĐT – HTĐT của Sở Kế hoạch và Đầu tư gửi UBND tỉnh Đồng Nai kiến nghị: “10,2 ha do cá nhân ông Tình, bà Sương đứng tên nhưng nằm trong dự án Khu dân cư Tam Phước đã được tỉnh giải quyết cho Công ty SGCC đầu tư".
Và nhận định của TAND Cấp cao và Viện KSND Cấp cao cũng chung nội dung trên: Bản án ngày 21/05/2015 do ông Võ Văn Cường (Phó Chánh án TAND Cấp cao) và ông Võ Văn Thêm (Phó Viện trưởng Viện KSND Cấp cao) xét xử tại trang 17-18 của Bản án khẳng định: “Các thửa đất 180; 236; 237; 237b; 237c; 286 đã bị UBND huyện Long Thành thu hồi theo QĐ 5969/QĐ-UBND ngày 16/12/2009, nên tài sản này không còn là tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Tình, bà Sương nữa”.
Các tài liệu, hồ sơ, phân tích trên là cơ sở khẳng định, 10,2 ha đất này không phải là của vợ chồng Tình, Sương mà thuộc Công ty SGCC, do đó việc bản án tuyên cá nhân vợ chồng ông Tình, bà Sương trả nợ, nhưng lại kê biên tài sản của pháp nhân Công ty SGCC là sai phạm nghiêm trọng.
Không tiến hành định giá tài sản (10,2 ha đất) của Công ty SGCC: Trong suốt quá trình xét xử vụ án các cơ quan tố tụng đưa 10,2 ha đất này làm tang vật của vụ án và kê biên để thi hành án, nhưng lại không tiến hành định giá tài sản. Đây là một sai phạm rất nghiêm trọng về tố tụng. Vì nếu định giá đất thì Công ty SGCC đủ khả năng trả nợ thì không đủ cơ sở để kết luận tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Quyết định kê biên 10,2 ha để bảo đảm thi hành án là sai pháp luật. Như trình bày trên, 10,2 ha đất là của pháp nhân Công ty SGCC, còn bản án lại tuyên cá nhân vợ chồng ông Tình, bà Sương nợ ông Tài nên việc kê biên tài sản của pháp nhân là sai.
Từ những nội dung trên đây, đang đặt ra vấn đề: Các cơ quan chức năng cần làm rõ nỗi oan ức và minh oan cho vợ chồng ông Tình, bà Sương, giúp ông Tình, bà Sương lấy lại tiếng nói công bằng và cuộc sống bình yên, tự do như trước đây.
Bán đấu giá tài sản không phải của người bị thi hành án!
10,2 ha đất thuộc các thửa 180; 236; 237; 237b; 237c; 707; 286 và các công trình trên đất được mang ra bán đấu giá. Trong khi quyền sử dụng đất này là tài sản của Công ty SGCC, được thừa nhận trong Bản án hình sự phúc thẩm 274/HSPT ngày 21/5/2015: “… Thửa 180; 236; 237; 237b; 237c; 286 đã bị UBND huyện Long Thành thu hồi theo QĐ 5969/QĐ-UBND ngày 16/12/2009 nên tại thời điểm bàn giao thì các tài sản này không còn là tài sản hợp pháp của vợ chồng ông Tình, bà Sương. Hơn nữa, một số các thửa đất nói trên … đã thế chấp cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam …”.
Như vậy, Cục trưởng Phan Văn Châu kí Quyết định thi hành án số 75/QĐ-CTHA ngày 25/6/2015 kê biên toàn bộ 10,2 ha đất và Chấp hành viên Trần Tân Phong đem bán đấu giá tài sản của Công ty SGCC để thi hành án cho cá nhân ông Tình, bà Sương là sai quy định pháp luật; là xâm phạm nghiêm trọng quyền sở hữu tài sản của Công ty SGCC, xâm phạm quyền lợi của Ngân hàng Agribank Chi nhánh quận 1 và những người đã tham gia góp vốn vào Công ty SGCC. Trong khi ông Phan Văn Châu và ông Trần Tân Phong buộc phải biết nội dung Bản án 274/HSPT chỉ kê biên để bảo đảm thi hành án, chứ không phải bản án tuyên đây là tài sản của ông Tình, bà Sương phải bán để trả nợ cho ông Tài; và phải biết rằng tài sản được mang ra bán không phải là của người phải thi hành án. Nhưng vẫn cố tình bán quyền sử dụng 10,2 ha đất, rồi giao đất cho ông Tài là thể hiện có dấu hiệu vụ lợi cá nhân; thể hiện dấu hiệu có sự câu kết giữa Cục trưởng Châu, chấp hành viên Phong và ông Lê Đình Tài để cùng nhau hưởng lợi?
Định giá tài sản thấp hơn giá thật gần 300 tỉ đồng!
Theo yêu cầu của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai, Công ty thẩm định giá Thuận Việt tiến hành định giá và ngày 6/1/2016, phát hành Chứng thư thẩm định giá 04/2016/CT-TVCorp kết luận quyền sử dụng 10,2 ha đất thuộc các thửa 180; 236; 237; 237b; 237c; 286; 707, trị giá chỉ 9.878.760.000 đồng và tài sản trên đất có giá 3.712.394.600 đồng. Giá trong chứng thư này được sử dụng khi bán đấu giá các tài sản nêu trên. Tuy nhiên, chứng thư thẩm giá này là để ông Tài được hưởng lợi, thể hiện có các nội dung sai trái, như sau:
Đổ đồng vị trí và các loại đất khác nhau khi định giá: Quyền sử dụng các thửa đất đem ra bán đấu giá thuộc nhiều loại đất và nằm ở nhiều vị trí khác nhau: Có diện tích là đất thổ cư có nhà ở, có diện tích là đất nông – lâm nghiệp, có đất nằm ở vị trí mặt tiền nhưng khi thẩm định thì lại cào bằng các loại đất với nhau. Đúng ra, với từng loại đất và từng vị trí khác nhau sẽ có mức giá khác nhau, việc đổ đồng và cào bằng vị trí, các loại đất với nhau là sai, làm giá trị của khu đất bị giảm xuống, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người được thi hành án.
Áp giá Nhà nước để định giá: Công ty thẩm định đã áp dụng giá Nhà nước khi định giá khu đất: 10,2 ha đất dự án, có đường xá, cơ sở hạ tầng nhưng kết quá thẩm định chỉ hơn 9 tỉ đồng. Tính trung bình 100.000đồng/m2. Đây là mức giá Nhà nước áp dụng cho khu vực này.
Trong trường hợp này, nếu đúng theo quy định của pháp luật là phải lấy giá thị trường nhân với từng loại đất, vị trí thửa đất thì mới ra kết quá chính xác khi định giá. Để chứng minh, ông Tình, bà Sương đã đề nghị Công ty CP Tư vấn và thẩm định giá Toàn Cầu thẩm định lại giá thị trường của khu đất và kết quả 10,2ha đất nêu trên có giá thị trường là: 198.341.000.000 tỉ đồng, cao gấp 20 lần so với giá mà Công ty Thuận Việt đưa ra.
Thêm vào đó, Bản án sơ thẩm 108/2014/BAST của TAND tỉnh Đông Nai nêu rõ: Trung tâm Kiểm định xây dựng thuộc Sở Xây dựng tỉnh Đồng Nai đã kết luận chi phí Công ty SGCC đầu tư xây dựng nhà, hạ tầng cơ sở trên các mảnh đất tranh chấp là 11.293.151.000 đồng. Nhưng Chứng thư thẩm định giá 04/2016/CT-TVCorp lại cho rằng nhà cửa, cây cối và công trình hạ tầng tại các mảnh đất nêu trên chỉ có giá: 3.712.394.600 đồng. Sự chênh lệch hơn 7 tỉ đồng giữa một Trung tâm Kiểm định Nhà nước (thẩm định để phục vụ cho việc xét xử sơ thẩm) và một công ty thẩm định giá tư nhân đặt ra nhiều nghi ngờ về khả năng chính xác của Chứng thư thẩm định giá 04/2016/CT-TVCorp.
Việc thẩm định giá sai đã đem lại cho ông Lê Đình Tài – người trúng đấu giá nguồn lợi hơn 300 tỉ đồng. Sai phạm vô cùng nghiêm trọng nói trên của Công ty thẩm định giá Thuận Việt là vô tình hay cố ý? Có hay không sự thông đồng giữa Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai, Công ty thẩm định giá và ông Lê Đình Tài? Họ có phải đã nhận được lợi ích từ việc làm giảm giá trị tài sản thẩm định xuống gần 20 lần?
Theo Luật sư Trần Việt Cường , Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh: “Xem xét cả một quá trình: khởi đầu là thủ đoạn bàn giao đất giữa ông Tình, bà Sương và ông Tài ngay từ giai đoạn điều tra, tới giai đoạn truy tố lại đề nghị tách và đưa vụ án “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” mà ông Tài là bị hại lên xét xử trước và yêu cầu Tòa án công nhận việc bàn giao đất trái pháp luật. Tòa án sơ thẩm đã công nhận việc bàn giao này nhưng Tòa phúc thẩm khẳng định việc giao đất là trái quy định pháp luật và chỉ tuyên kê biên 10,2 để đảm bảo thi hành án, nhưng Cục Thi hành án dân sự bất chất pháp luật đem 10,2 ha đất ra bán đấu giá. Tất cả các sai phạm này cũng chỉ nhằm mục đích cuối cùng là “đưa 10,2 ha đất về tay ông Tài”. Thêm vào đó, nếu việc cấn trừ nợ giữa số tiền ông Tình, bà Sương nợ ông Tài và tiền trúng đấu giá được diễn ra, thì ông Tài “thành công rực rỡ” trong việc biến 10,2 ha đất của Công ty SGCC thành tài sản của mình. Một mũi tên trúng 3 đích: Có được đất của Công ty SGCC với giá rẻ bèo; vợ chồng ông Tình, bà Sương vẫn nợ ông Tài số tiền hơn 60 tỉ; dùng số đất đấu giá được để thực hiện dự án nhà ở mà Công ty Lê Sơn Thịnh của ông Tài thay thế Công ty SGCC thực hiện (UBND tỉnh Đồng Nai thu hồi dự án nhà ở đã cấp cho Công ty SGCC trên 10,2 ha nêu trên sau đó giao lại cho Công ty Lê Sơn Thịnh của ông Tài). Từ những căn cứ trên, có đủ cơ sở kết luận vợ chồng ông Tình, bà Sương có dấu hiệu bị oan sai; và có dấu hiệu các cơ quan tố tụng tỉnh Đồng Nai sai phạm nghiêm trọng về pháp luật gây thiệt hại vô cùng to lớn đến tài sản của vợ chồng ông Tình, bà Sương và những người góp vốn.
Tôi kính đề nghị quý lãnh đạo yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền: Xem xét lại Vụ án số 274/2015/HSPT ngày 21/5/2015 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh để kháng nghị giám đốc thẩm, hủy 2 bản án trả hồ sơ về giải quyết theo án dân sự; hủy kết quả bán đấu giá của Cục Thi hành dân sự tỉnh Đồng Nai đối với quyền sử dụng 10,2 ha đất và tài sản trên đất thuộc các thửa 180; 236; 237; 237b; 237c; 707; 286 tại xã Tam Phước, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Tài, người mua trúng đấu giá; điều tra, xác minh làm rõ các dấu hiệu sai phạm của các cá nhân, đơn vị nêu trên và xử lí nghiêm những tiêu cực của nhóm lợi ích này, để đảm bảo sự minh bạch, trong sạch trong hoạt động thi hành án của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai; xem xét lại toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Thị Chí Sương để xác minh ông Lê Đình Tài có liên quan tới các dấu hiệu tiêu cực như đã nêu trong vụ án này hay không? Trong khi chính ông Tài là người đề nghị tách vụ án; ông Tài là người được thi hành án, đồng thời cũng là người trúng đấu giá tài sản thi hành án và cũng chính công ty của ông Tài được giao lại dự án mà trước đây Công ty SGCC thực hiện trên 10,2 ha đất bán đấu giá. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là sự sắp xếp có ý đồ ngay từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử cho đến thi hành án? Qua đó, để xử lí nghiêm minh những người sai phạm trước pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thi hành án và hơn 207 người góp vốn vào Công ty SGCC.