Ngày Xuân đến thăm thầy Mo đời thứ 9 của làng Roộc Răm
Xã hội 16/01/2023 09:50
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia độc đáo
Lễ hội Kin chiêng boọc mạy của Làng văn hóa Roộc Răm được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản Văn hoá phi vật thể Quốc gia năm 2017. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa tinh thần độc đáo của cộng đồng người Thái ở xã Xuân Phúc nói riêng và các bản làng của người Thái ở Thanh Hóa nói chung. Lễ hội diễn ra với mục đích tạ ơn thần linh, mở hội ăn mừng sau một năm lao động để cầu cho dân làng bình an, mạnh khỏe, tiếp tục làm nương rẫy tốt.
Trước kia, việc tổ chức Lễ hội Kin chiêng boọc mạy ở bản Roộc Răm do dòng họ Hà chủ trì. Dòng họ Lò (Lô) thường được chọn làm Bào chớ, Sao chớ (những người phục vụ thầy Mo). Sau này họ Hà không tìm được người có đủ khả năng để truyền nghề “Mo” nên họ Hà quyết định truyền nghề Mo cho họ Lò. Cũng từ đó, việc tiến hành Lăm chá Kin chiêng boọc mạy trong bản, trong mường do dòng họ Lò đảm nhiệm. Hiện nay, ông Lò Đình Ước là đời thứ 9 của nhà Mo đứng ra chủ trì giúp dân làng tổ chức làm Lăm chá Kin chiêng boọc mạy. Ngoài ra, còn có các Bào chớ, Sao chớ, những nhân vật quan trọng giúp thầy điều khiển lễ hội.
Nghệ nhân Lò Đình Ước trò truyện với phóng viên. |
Theo chân cán bộ văn hóa xã Xuân Phúc đến làng Roộc Răm, gặp và trò chuyện cùng ông Lô Đình Ước, chúng tôi được biết: Làng Roộc Răm có 3 dân tộc cùng chung sống (Kinh, Mường và Thái), trong đó người Thái chiếm nhiều nhất. Trước kia dân làng tổ chức vào dịp tháng Giêng, tháng Hai, theo chu kì cứ 3 năm làm “đại”, hằng năm làm “tiểu”. Năm làm “tiểu” diễn ra ở phạm vi các gia đình, còn những năm dân làng tổ chức làm “đại” thì tục lệ này được diễn ra tại đền Cấm - nơi làng thờ Thành hoàng - ông Trần Công Bát. Để tiến hành làm Lăm chá Kin chiêng boọc mạy, đồng bào phải tiến hành làm lễ “Tem phạ” (lễ hết sấm nộp tang Trời), được bắt đầu từ tháng 9 âm lịch, mọi nhà đều phải treo các dải chỉ xanh đỏ - để tang Trời 3 ngày.
Lễ tục Kin chiêng boọc mạy là một giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Thái. Nó ra đời và tồn tại cùng với sự vận hành của thiết chế bản mường. Thông qua tục lệ này, toàn bộ đời sống bản mường cổ truyền được tái hiện lại, bao gồm văn hóa sản xuất (các hoạt động kinh tế), văn hóa ứng xử tín ngưỡng (phong tục tập quán, quan hệ ứng xử), văn hóa nhận thức (kho tàng tri thức dân gian), về tự nhiên, xã hội, con người.
Cây bông được xem là “linh hồn” của lễ tục, tượng trưng cho cuộc sống sinh sôi, trù phú của bản mường, sự bảo tồn nòi giống của tự nhiên. Công tác chuẩn bị cây bông cho lễ hội được bắt đầu từ những ngày đầu tháng Chạp. Ông Ước cho biết: Tùy thuộc vào thế hệ nhà Mo mà cây bông được làm 3, 5, 7, 9 tầng. Hiện cây bông trong Lễ hội Kin chiêng boọc mạy làng Roộc Răm được làm 9 tầng (tương xứng với đời Mo thứ 9), mỗi tầng có hàng trăm nhánh. Cây bông ở đây khác với các địa phương khác là thân cây bông được làm bằng tre hoặc luồng, với hàng ngàn bông hoa đủ loại màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng. Hoa được gọt, tiện từ thân cây trong rừng như cây sao, trám, chôm,… Sau đó đem đồ chín, phơi khô, nhuộm màu bằng nhựa các loại vỏ cây cũng lấy trong rừng như cây sấu, nghèn vàng, cánh kiến… Cùng với những bông hoa là các hình chim, thú, dụng cụ lao động sản xuất được đan bằng nứa cũng treo lên cây bông.
Nghệ nhân Lò Đình Ước |
Tại đền Cấm, dân làng dựng cây bông, thầy Mo tế lễ thần linh, thổ công, thần núi, thần sông, thần rừng, Thành hoàng mời tất cả cùng về đền Cấm dự cơm mới và cùng dân làng làm Lăm chá Kin chiêng boọc mạy. Thầy Mo sử dụng dụng cụ gia tuyền như ấn, kiếm, lệnh, quạt lông công, chuông, quần, áo, mũ, khăn, dây thắt lưng, trống âm. Nhạc cụ gồm: Cồng, chiêng, tiêu, sáo, khèn bè, ống gõ, chày dã, trống da trâu. Lời cúng trong buổi lễ thuộc văn tự cổ sử dụng làn điệu khắp.
Cuối lễ hội, từng người tự lên hái hoa đưa cho “thần” xem, chỉ trừ một vài trường hợp “đặc biệt” mới được thầy cho hoa đem về nhà. Người dân quan niệm, ai được như vậy là người vô cùng may mắn. Tối kị về việc tự tiện hái hoa, phá cây bông thờ.
Lễ tục này kéo dài từ một đến ba ngày đêm, nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt tinh thần của mọi người trong bản. Dân bản tổ chức vũ hội, như múa cây bông, đánh cồng chiêng, khua luồng, nhảy sạp và một số trò diễn khác như đánh mảng, ném còn, hát múa dưới cây bông, đánh trống âm để đuổi ma tà, gà đẻ trứng, trò trâu trời xuống mường dưới cày ruộng... Vì thế mà nó đã có sức sống lâu bền trong đời sống của nhiều thế hệ người Thái. Việc tổ chức tục lệ này không chỉ có ý nghĩa quan trọng về tính kết nối cộng đồng, trên tinh thần đoàn kết, tạo nên sức mạnh chiến thắng thiên tai, địch họa, mà còn có ý nghĩa giáo dục và tinh thần nhân văn cao cả.
Hình thức nghi lễ, trò diễn, vũ hội trong lễ tục đã thể hiện tính cộng đồng trong bản mường rất chặt chẽ. Đó là khát vọng tự do, bình đẳng, không phân biệt giai cấp, sang giàu, nghèo hèn; giữa người với người; giữa con người với trời đất, thần linh. Đó chính là nhân sinh quan, vũ trụ quan, thiên - địa - nhân hòa hợp - một ước mơ giản dị của con người. Đồng thời thể hiện khát vọng được hưởng thụ và sáng tạo: Người nhập vai “thần”, đóng vai “Mường Trời” đã mượn cái “huyền ảo” cái “linh thiêng”cái “uy” của “thần” để nói cái thực ở đời, răn dạy người đời điều chỉnh các hành vi văn hóa của con người, không làm điều ác, sống yêu thương nhau và làm điều tốt lành.
Các loài vật, muông thú rất được coi trọng
Người Thái khi làm lễ tục này họ rất coi trọng các loài muông thú, vật nuôi. Trong những câu ví cửa miệng họ đều ví với các loài vật: Lời nói vui như chim toen khoẻn hót, giọng nói ngọt như mật ong tháng ba,… Bởi họ cho rằng, tất cả chúng đều gắn bó với đời sống con người và chúng đều có linh hồn: “Hết năm cũ lại sang năm mới cứ vào tháng Giêng, Hai làng đến kì mở hội, cây bông mường lại được dựng lên, các thần linh của mường Trời, các thần linh thổ địa, các thần núi thần sông lại trở về hiện linh vào cây bông của mường, có đủ linh hồn chim muông thú”.
Việc bắt lợn, bắt gà để làm thịt sắm mâm cơm lễ thần cũng được tiến hành theo nghi lễ, vừa làm vừa có lời khấn. Chẳng hạn như bắt lợn làm thịt khấn rằng: “Lợn ơi lợn, vua Then cho mày xuống lương gian, mày xuống lương gian, mày ở ngoài rừng, mày sợ hổ bắt ăn thịt, mày phải về ở với người lương gian được nuôi nấng. Người lương gian bảo rằng: Về đây tao làm chuồng cho mày ở, nấu cám cho mày ăn, nay đến ngày có công có việc, phải bắt mày để làm thịt làm lễ Lam chá lấy thịt mày làm lễ Kin chiêng. Lời người nói như vậy, mày đừng oán giận, người lấy cám ra cho mày ăn bữa cuối, trai làng vào cầm chân sau mày đừng đá, cầm chân trước mày chịu ngã, trói mày như trói dê, thật chặt đem mày cắt tiết, làm thịt, lấy thịt mày làm bữa, hồn mày về trời đừng oán nhé”.
Hiện lễ tục Kin chiêng boọc mạy được chính quyền địa phương hết sức quan tâm tạo điều kiện để bảo tồn và phát huy các giá trị. Ông Lê Văn Luân, Phó Chủ tịch UBND xã Xuân Phúc chia sẻ: “Đây là một sinh hoạt văn hóa dân gian được cộng đồng người Thái sáng tạo ra từ lâu đời, và được các thế hệ người Thái nuôi dưỡng, bảo tồn và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đến nay nó đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong đời sống. Để giữ gìn và phát huy giá trị của Kin chiêng boọc mạy cho đến ngày hôm nay là sự nỗ lực không ngừng của bà con cũng như chính quyền địa phương”.
Trăn trở của Nghệ nhân Ưu tú Lò Đình Ước là muốn truyền dạy di sản này cho nhiều người trong cộng đồng, nhất là cho lớp trẻ để di sản có sức sống lâu bền, không bị mai một. Dù tuổi đã cao, sức yếu, những thao tác, bài cúng trong buổi lễ không đơn giản nhưng ông vẫn nhiệt tình truyền dạy cho bà con trong bản, ngoài huyện nếu ai có nhu cầu, với mong muốn gìn giữ và phát huy di sản văn hoá phi vật thể của dân tộc.