Kết luận 178-KL/TW: Giao Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương hướng dẫn sắp xếp, hợp nhất, sáp nhập và thành lập các hội quần chúng

Sự kiện 23/06/2025 17:40
Sáng 23/6, tiếp tục chương trình Kì họp thứ 9, Quốc hội thảo luận ở hội trường dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Không làm phát sinh cơ chế xin-cho
Theo đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị), dù đã có các báo cáo tổng hợp, kiến nghị từ các bộ, ngành, địa phương trong nhiều năm, nhưng quá trình sửa luật thường kéo dài. Vì vậy, việc ban hành một Nghị quyết của Quốc hội để tạm thời xử lý các vướng mắc này là rất cần thiết, hợp lý và đúng thẩm quyền, phù hợp với khoản 2 Điều 15 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
![]() |
Đại biểu Hà Sỹ Đồng phát biểu tại hội trường Quốc hội sáng 23/6. |
Đánh giá cao cách tiếp cận mang tính thực tiễn, chọn lọc 25 nhóm vướng mắc tiêu biểu, có ảnh hưởng rộng và đã được rà soát kỹ lưỡng qua quá trình chuẩn bị. Đại biểu Hà Sỹ Đồng lưu ý nên cho phép áp dụng linh hoạt tiêu chí xác định dự án quan trọng quốc gia, tạo điều kiện triển khai các công trình hạ tầng lớn mà không phải chờ sửa Luật Đầu tư công; Tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến quy trình chuyển mục đích sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; Hướng dẫn áp dụng quy định đấu thầu, định giá đất, lựa chọn nhà đầu tư để đảm bảo tiến độ và hiệu quả đầu tư…
Đại biểu Hà Sỹ Đồng đề nghị bổ sung nguyên tắc bảo đảm minh bạch, không làm phát sinh cơ chế xin-cho. Ngoài ra, một số nội dung giao thẩm quyền xử lý cho bộ, ngành, địa phương, nếu không có nguyên tắc minh bạch rõ ràng sẽ dễ dẫn đến tùy nghi áp dụng. Do đó cần bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình và công khai phương án xử lý. Đồng thời quy định Nghị quyết có hiệu lực trong một khoảng thời gian xác định, ví dụ 2 năm, 3 năm, 5 năm và có báo cáo đánh giá tác động để làm cơ sở trong lộ trình sửa đổi luật…
Bên cạnh đó, trong thời điểm có hiệu lực thi hành và áp dụng cơ chế đặc thù, Chính phủ chỉ đạo cho bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, chủ trì soạn thảo những văn bản để sau này khi nghị quyết không còn hiệu lực thi hành, sẽ phải ban hành những dự thảo mới thay thế.
“Từ thực tiễn xây dựng nghị quyết, Quốc hội cần nghiên cứu thể chế hóa cơ chế thí điểm lập pháp có kiểm soát, tức là cho phép xử lý linh hoạt trong khuôn khổ của nghị quyết nhưng phải có báo cáo giám sát chặt chẽ. Điều này phù hợp với định hướng của Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị,” đại biểu Hà Sỹ Đồng nhấn mạnh.
Đại biểu Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) thể hiện sự nhất trí rất cao việc Chính phủ trình Quốc hội ban hành nghị quyết này, trong đó, có cơ chế cho phép Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các nội dung trong luật và nghị quyết của Quốc hội.
Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ và thận trọng, cần bổ sung thêm nội dung, đó là trường hợp việc sửa đổi dẫn tới đồng thời phải sửa các Luật, Nghị quyết khác không do Chính phủ trình thì trong hồ sơ phải gửi kèm theo ý kiến của cơ quan đã trình Luật, Nghị quyết đó để đảm bảo chặt chẽ, thận trọng.
“Nhìn ra thế giới, nhiều nước bị mắc kẹt rất lâu ở nhóm thu nhập trung bình khoảng 4-5 thập kỷ mà không thể chuyển được lên nhóm thu nhập cao. Để vượt được qua bẫy thu nhập trung bình thì đòi hỏi phải có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao và trong một thời gian rất là dài. Đồng thời đây là những mục tiêu rất áp lực và để đạt được mục tiêu này nếu như không tháo ngay những ‘điểm nghẽn của điểm nghẽn thì không thể hoàn thành được mục tiêu đề ra” – đại biểu Nguyễn Thị Thủy dẫn chứng.
Ngăn chặn nguy cơ làm quyền
Việc xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật thể hiện được yếu tố công bằng, minh bạch, hạn chế tối đa rào cản phi lý cho người dân, doanh nghiệp-điều kiện then chốt để tạo môi trường pháp lý thuận lợi và thúc đẩy phát triển bền vững.
Đại biểu Nguyễn Thị Sửu (TP Huế) nhấn mạnh hơn đến yếu tố minh bạch, đơn giản hóa thủ tục hành chính, bảo đảm người dân, doanh nghiệp có thể tiếp cận, hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình; ngăn chặn nguy cơ “lạm quyền”, “nhũng nhiễu” do thủ tục phức tạp mập mờ; Tăng ứng dụng công nghệ số, công khai quy trình xử lý trên cổng dịch vụ công quốc gia.
Nghị quyết 68/NQ-CP về cải cách thủ tục hành chính đã yêu cầu đơn giản hóa 100% thủ tục thuộc thẩm quyền các bộ ngành, lồng ghép, chuẩn hóa mẫu đơn, thực hiện “một cửa, một cửa liên thông”; Luật Tiếp cận thông tin (2016), Quy định rõ trách nhiệm công khai, minh bạch từ cơ quan nhà nước.
Bên cạnh đó cần tập trung phát triển môi trường pháp lý thuận lợi, công bằng, vì, nhắm đến nền pháp luật kiến tạo rằng không chỉ tháo gỡ vướng mắc mà còn nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, môi trường đầu tư thông thoáng, công bằng cho mọi chủ thể; Chính sách pháp luật phải “hỗ trợ”, “trao quyền” thay vì “kiểm soát,” “ngăn cấm” không cần thiết, đại biểu Nguyễn Thị Sửu đề nghị .
Tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo nghị quyết báo cáo Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện trình Quốc hội xem xét thông qua.
Nhấn mạnh về quy định thời hạn có hiệu lực của Nghị quyết, ông cho biết vấn đề này đã quy định trong khoản 1 Điều 7 và chỉ có hiệu lực đến hết ngày 28/2/2027, trong khoảng thời gian này phải rà soát sửa đổi các luật để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
“Nghị quyết 197 trao cho một cơ chế đặc thù, đặc biệt để tạo đột phá nhưng bên cạnh đó đi liền với quyền phải có trách nhiệm đã được thiết kế và chúng tôi rất mong các đại biểu Quốc hội, các Ủy ban giám sát để thực hiện nghị quyết này,” Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh nhấn mạnh./.