Bàn về Đông y phòng chống đại dịch Covid-19
Sức khỏe 17/08/2021 14:37
Bệnh danh
Trong đông y không có bệnh danh “Dịch bệnh Covid-19”, nhưng dựa trên các biểu hiện lâm sàng và quá trình diễn biến của bệnh hầu hết các chuyên gia, đặc biệt là ở Trung Quốc, đều cho rằng Covid-19 thuộc phạm trù “ôn dịch” trong đông y, có đặc điểm phù hợp với “thấp dịch độc” với các chứng hậu chủ yếu là thấp, nhiệt, độc, uất và hư, trong đó thấp tà đóng vai trò quan trọng nhất. Mức độ truyền nhiễm của dịch bệnh này rất mạnh đúng như y thư cổ Ôn dịch luận đã viết: “Tà tự khẩu tị nhi nhập”, “tà chi tỏa trước, hữu thiên thụ, hữu truyền nhiễm, sở cảm tuy thù, kì bệnh tắc nhất”.
Bệnh nguyên bệnh cơ
Nguyên nhân gây dịch bệnh Covid-19 vẫn không nằm ngoài hai vấn đề là tà khí (mầm bệnh) và chính khí (sức đề kháng và miễn dịch) như y thư cổ đã viết: “Tà chi sở tấu, kì khí tất hư; chính khí tồn nội, tà bất khả can”. Nhưng tà khí của dịch bệnh này không đơn giản là các tà khí thường nói như phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa trong lục dâm. Và vấn đề sức đề kháng và miễn dịch của cơ thể suy giảm cũng đóng một vai trò cực kì quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến sự phát sinh và phát triển của dịch bệnh trong khi chưa có thuốc đặc trị và vaccine cũng còn nhiều bất cập nhất là khi virut biến tính. Đúng như danh y Ngô Hựu Khải đã từng chỉ rõ: “Bản khí sung mãn, tà bất dịch nhập, bản khí thích phùng khuy khiếm, hô hấp chi gian, ngoại tà nhân nhi thừa chi”.
Thuốc cổ truyền góp phần tích cực trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân mắc COVID-19. |
Nhân khi chính khí hư suy hoặc do tà khí quá mạnh mà dịch độc xâm nhập từ đường miệng hoặc mũi mà vào cơ thể, trước tiên phạm phế, phế kinh thụ tà mà mất tuyên phát khiến bệnh phát sinh. Bệnh thể nhẹ có khởi đầu là do thấp tà, được chia thành hai loại hình là hàn thấp uất phế và thấp nhiệt uẩn phế, biểu hiện bệnh tương đối nhẹ. Khi tà chính giao tranh, bệnh tiến triển sang thể thông thường, thấp độc trở phế là chứng hậu chính, chủ yếu biểu hiện bằng các triệu chứng như ho, mệt mỏi, tức ngực, khó thở, sốt nhẹ, ăn kém, rêu lưỡi vàng nhớt hoặc trắng nhớt, mạch hoạt hoặc nhu. Khi tà khí thiên thắng, độc tà bế phế, tà chuyển hóa thành nhiệt, tiến triển thành thể nặng với các biểu hiện chính như thở gấp, khó thở, mệt mỏi nhiều, ho, ăn kém, lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt. Nếu chính khí suy bại thì bệnh tình phát triển thành thể nặng hơn với chứng hậu nội bế ngoại thoát. Bên cạnh đó, dich độc còn xâm nhập vào các cơ quan tạng phủ khác mà làm phát sinh các chứng hậu nặng nhẹ khác nhau khiến bệnh trạng trở nên phức tạp và nguy hiểm.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu
Ở giai đoạn đầu, các triệu chứng nổi bật bao gồm sốt, ho khan, mệt mỏi, có thể kèm theo tình trạng ăn kém, buồn nôn, đại tiện phân nát hoặc tiêu chảy..., chất lưỡi hồng nhạt, rêu nhớt. Khi bệnh tiến triển thì có thêm các biểu hiện như thở gấp, hô hấp khó khăn, thậm chí dẫn đến suy hô hấp. Triệu chứng sốt đa phần là sốt nhẹ hoặc nhiệt độ bình thường, tạng bị tổn hại nhất là phổi, người ra dịch độc còn có thể công kích vào các cơ quan khác, công năng miễn dịch bị tổn thường nghiêm trọng, có thể xảy ra hiện tượng tái dương tính. Theo kết quả khảo sát trên 1.099 bệnh nhân được chẩn đoán xác định của các nhà y học Trung Quốc, các triệu chứng thường gặp bao gồm sốt (87,9%), ho (67,7%), ít gặp tiêu chảy (3,7%) và buồn nôn (5%). Triệu chứng lâm sàng lúc khởi phát của 88 bệnh nhân tại Thiên Tân gồm sốt (87,5%), ho (42%), mệt mỏi (26,1%)... Các triệu chứng trong Đông y thường gặp khi nhập viện gồm năm biểu hiện chính: ăn uống kém (46,7%), tiêu chảy (45,5%), sốt nhẹ (39,8%), giảm tiết mồ hôi (36,4%), ho (34,1%).
Về thiệt chẩn, chất lưỡi đa phần là hồng, đỏ hoặc ám đỏ; rêu lưỡi thường nhớt, lúc khởi phát bệnh thì có thể là rêu trắng, bệnh tiến triển thường gặp rêu vàng nhớt, đồng thời có thể gặp rêu khô ít tân dịch. Khi khí uế trọc ứ đọng trong dạ dày, rêu lưỡi trắng như có một lớp bột, mạch tượng chủ yếu là mạch hoạt và mạch sác.
Chẩn đoán
Quan điểm chung là dù trị liệu theo đông y hay tây y đơn thuần hoặc phối hợp đều phải xác định chẩn đoán theo y học hiện đại. Trên cơ sở đó, khi vận dụng các biện pháp của đông y cần chẩn đoán và phân loại thể bệnh sau khi tiến hành tứ chẩn. Ở Trung Quốc, tiêu chuẩn chẩn đoán tây y được xây dựng theo hai nhóm: Ca bệnh nghi ngờ và ca bệnh xác định (với bốn thể bệnh nhẹ, thông thường, nặng và trầm trọng) và tiêu chuẩn chẩn đoán đông y được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn quan sát diễn biến bệnh, giai đoạn điều trị lâm sàng (đối với những trường hợp đã được chẩn đoán xác định) và giai đoạn hồi phục.
Thông qua tứ chẩn, đông y Trung Quốc đã phân chia các trường hợp đã được chẩn đoán xác định bằng y học hiện đại thành các thể bệnh theo quan điểm của đông y như sau:
- Thể nhẹ có hai thể: (1) Hàn thấp uất phế với triệu chứng sốt, mệt mỏi, toàn thân đau nhức, ho, khạc đờm, tức ngực khó thở, ăn uống kém, buồn nôn, nôn, đại tiện nhiều lần trong ngày, chất lưỡi bệu có vết hằn răng, sắc nhạt hoặc hồng, rêu lưỡi dày nhớt hoặc trắng nhớt, mạch hoạt hoặc nhu. (2) Thấp nhiệt uất phế với triệu chứng sốt nhẹ hoặc không sốt, hơi sợ lạnh, mệt mỏi, toàn thân mỏi nặng, đau nhức cơ, ho khan đờm ít, đau rát cổ họng, miệng khô nhưng không khát, hoặc tức ngực, bụng có khối cứng, không mồ hôi, buồn nôn, ăn uống kém, đại tiện phân nát, lưỡi hồng, rêu rắng dày nhớt hoặc vàng mỏng, mạch hoạt hoặc nhu.
- Thể thông thường có hai thể: (1) Thấp độc uất phế với triệu chứng phát sốt, ho ít đờm hoặc đờm vàng, tức ngực khó thở, bụng chướng, đại tiện táo, chất lưỡi ấm đỏ, lưỡi bệu, rêu vàng nhớt hoặc vàng táo, mạch hoạt sác hoặc huyền hoạt. (2) Hàn thấp trở phế với triệu chứng sốt nhẹ, không sốt cao hoặc chưa phát sốt, ho khan, ít đờm, mệt mỏi, tức ngực, bụng có khối cứng, buồn nôn, đại tiện phân nát, chất lưỡi nhạt hoặc hồng, rêu trắng hoặc trắng nhớt, mạch nhu.
- Thể nặng có hai thể: (1) Dịch độc bế phế với triệu chứng phát sốt, mặt đỏ, đờm vàng ít hoặc trong đờm có máu, khó thở, mệt mỏi, miệng khô đắng dính, buồn nôn, đại tiện táo, tiểu rắt tiểu buốt, lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt, mạch hoạt sác. (2) Khí dinh lưỡng phản với triệu chứng sốt cao phiền khát, khó thở, mê sảng, hoặc nhìn vật mờ mắt, hoặc phát ban, hoặc nôn ra máu, chảy máu, hoặc co rúm tứ chi, lưỡi đỏ thẫm, rêu ít hoặc không có rêu, mạch trầm tế sác hoặc phù đại sác.
- Thể trầm trọng (thể nội bế ngoại thoát) với triệu chứng hô hấp khó khăn, suy hô hấp, cần thông khí cơ học, tiền mê sảng, bức bối, vã mồ hôi, lạnh tứ chi, chất lưỡi ám tím, rêu dày nhớt hoặc dày táo, mạch phù đại vô lực.
Ngoài ra, theo các tác giả Trung Quốc, giai đoạn quan sát diễn biến bệnh (chưa được chẩn đoán xác định) cũng có thể can thiệp bằng đông y với hai bệnh cảnh: Mệt mỏi kèm theo bụng dạ khó chịu và mệt mỏi kèm theo sốt.
Với giai đoạn hồi phục có thể chia thành hai thể: (1) Phế tì khí hư với triệu chứng thở nông, mệt mỏi, ăn uống kém, buồn nôn, bụng chướng, đại tiện phân nát, lưỡi bệu, chất lưỡi nhợt, rêu trắng nhớt. (2) Khí âm lưỡng hư với triệu chứng mệt mỏi, thở nông, môi khô miệng khát, tâm phiền, mồ hôi nhiều, ăn uống kém, sốt nhẹ hoặc không sốt, ho khan ít đờm, lưỡi khô, mạch tế hoặc hư vô lực.
Điều trị
5.1 Nguyên tắc điều trị: Các nhà Trung y đã xác định ba nguyên tắc cơ bản trong trị liệu dịch bệnh Covid-19 là:
* Biện bệnh vi chủ, biện chứng kết hợp, chuyên bệnh chuyên phương
Covid-19 là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, thuộc phạm vi dịch độc trong đông y vì vậy nên dựa vào đặc điểm và biểu hiện bệnh lí của dịch độc để “biện bệnh vi chủ”, lấy việc xua đuổi tà khí làm trọng điểm. Đồng thời căn cứ vào đặc điểm phát bệnh của dịch độc, tức loại dịch bệnh nào cũng có triệu chứng tương đồng, để vận dụng “chuyên bệnh chuyên phương” một cách hiệu quả, kịp thời khống chế dịch bệnh. Khi bệnh tình đã ổn định cần căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi người bệnh mà “biện chứng luận trị” và dựa trên các bài thuốc cơ bản đã điều trị mà gia giảm cho phù hợp.
* Xem trọng chính khí của cơ thể, chú ý biến đổi bệnh lí của tạng phủ, căn cứ vào bệnh tình mà phân loại để điều trị
Mức độ phát bệnh không chỉ dựa vào sức mạnh yếu của dịch độc mà còn dựa vào tình hình mạnh yếu của chính khí trong cơ thể, vì vậy trong trị liệu phải luôn luôn chú ý và vận dụng linh hoạt cân bằng giữa khu tà và phù chính trong từng gia đoạn của bệnh. Dịch bệnh Covid-19 chủ yếu gây bệnh tại phổi nhưng khi bệnh tình biến chuyển trầm trọng có thể ảnh hưởng đến nhiều tạng phủ khác. Dịch bệnh diễn biến rất nhanh nên phải tranh thủ từng giây từng phút để cứu tính mạng cho người bệnh, do đó cần dựa vào tốc độ phát triển và mức độ nghiêm trọng của bệnh để kịp thời phân chia thành các thể bệnh mà áp dụng các phương pháp điều trị thích hợp.
Kết hợp đông tây y, ưu thế tương hỗ
Đối với thể nhẹ và thể thông thường nguyên tắc chung là tích cực điều trị triệu chứng, ngăn ngừa bệnh chuyển sang thể nặng. Thuốc đông y được dùng ngay từ đầu theo pháp chữa: Tuyên phế thấu tà, phương hương hóa trọc, bình suyễn hóa đàm, thông phủ tả nhiệt để khống chế, làm thuyên giảm và điều trị dứt điểm bệnh tình. Đối với thể nặng và trầm trọng, nguyên tắc trị liệu là: Kết hợp đông tây y, ưu thế tương hỗ. Bên cạnh việc sử dụng hết sức tích cực các biện pháp của tây y, cần dùng đông dược từ sớm và chuẩn xác, lúc cần thiết nên dùng những vị thuốc có công năng thanh tâm khai khiếu, ích khí cố thoát... để góp phần cứu tính mạng cho bệnh nhân và làm giảm tỉ lệ tử vong. Trong giai đoạn hồi phục, nguyên tắc trị liệu là: Phục trợ chính khí, đề phòng tái phát bằng cách trọng dụng các vị thuốc có tác dụng ích khí dưỡng âm, hoạt huyết hóa ứ, thông lạc tán kết... nhằm mục đích thanh trừ dư tà, phục trợ chính khí, thúc đẩy quá trình hồi phục, làm giảm bớt di chứng và dự phòng bệnh tái phát. (Còn nữa)