Mùa nấu đường...
Văn hóa - Thể thao 09/01/2020 10:52
Trồng mía ăn tươi là chuyện phụ; mục đích chính là để ép nước, nấu đường. Tuy nhiên, giống mía “nấu đường” ngày xưa không khác mấy với mía trồng ăn tươi, nghĩa là rất chi ngọt, mềm, nhiều nước. Vậy nên mía vừa bắt đầu có lóng (gióng) là lũ trẻ chăn bò “nhất quỉ nhì ma” đã bắt đầu lom lom để ý. Đám chăn bò mà “dòm” thì, ôi thôi, phiền toái lắm. Biết vậy nên người trồng mía nào cũng phải đi tắt về ngang, canh ngày canh đêm. Canh thì canh nhưng cũng không cách nào miễn khoản “cống nộp” cho lũ nhỏ lẹ mắt lanh tay. Con đường mòn nhỏ xíu xiu, hai bên mía cao chớn chở, có ông chủ nào trang bị “mắt thần” mà một lúc quan sát hết thảy bốn bên ruộng mía? Lũ “bợm” đi đường cứ liếc ngửa liếc ngang, thấy vắng là tạt nhanh xuống lề. Rốp, rốp - chưa đầy nửa phút đã cầm hai ba cây mía nhẵn nhụi chạy lên. Giờ thì chúng sẽ tùng tơn vừa đi vừa tước vỏ, hít, nhai. Ông chủ có gặp cũng chào thua, biết có phải mía mình không mà hỏi?
Tôi là con gái, không dám “bợm” tới mức đó, chỉ chờ… xin. Thường khi tò tò theo xin mía đèo (mía đẹt, cây nhỏ) của vài ông chủ tốt bụng. Bí quá mới đi xin “mía trộm”. Mấy “đại ca” chăn bò bợm thì có bợm, nhưng cũng biết xử sự “trượng phu” cùng cô em gái, ăn luôn nhớ để phần. Ngon lắm, cái hương vị ngọt ngào của những lóng mía đất quê. Càng ngon hơn bởi nỗi thèm thuồng triền miên của tuổi thơ nghèo cực, ít có cơ hội được ăn mía một lần cho đã…
Cơ hội cũng có, nhưng phải chờ tới mùa nấu đường. Mùa nấu đường mía sẽ bị phát (chặt) đồng loạt hết đám, tập trung chở về lò nấu. Lò thủ công lưu động, đào đắp theo mùa, thường là nơi các bãi đất rộng có bóng râm. Bên cạnh lò là “che” - tức hai thớt cối đá khổng lồ dùng ép mía cây. Xưa, người ta quay “che” nhờ sức kéo trâu bò. Nay cải tiến hơn thì dùng động cơ nhưng hệ thống cối ép nghiền mía cây vẫn cơ bản vậy.
Mía “tập kết” về bãi nấu đường thì được phép tha hồ ăn (tại chỗ). Người lớn chừng một cây đã ngán nhưng lũ nhỏ thì chưa đâu, con nít vốn hảo ngọt mà! Ngày nào cũng kiếm cớ la cà, ghé qua lò nấu ít nhất một lần để hưởng “lộc trời cho”. Tôi vốn tính ăn tham, lần nào cũng nhai mía nhiều tới mức rát lưỡi, cái bụng thì no căng, óc ách. Vậy nhưng đứng dậy ra về vẫn chùng chình một bước đi hai bước ở. Còn “đói con mắt” mà…
Mía ép ra bã hết rồi thì “tiệc mía” cũng coi như bế mạc. Giờ chỉ còn vớt vát bằng “chiêu” cà rà theo tám chuyện với mấy bác thợ nấu đường bên lò ngùn ngụt cháy. Kiên nhẫn một chút, tới lúc thể nào cũng được bác thiện chí múc cho bát nước “chè hai” - tức thứ nước mía vừa được nấu cô giai đoạn đầu, có hương vị thơm ngon rất đặc trưng, ngọt lịm và nóng hổi! Kì lạ, được uống bát nước “chè hai” người vừa lao động nặng xong, mệt cách mấy cũng khỏe ra ngay, y như thần dược. Còn với riêng tôi, bát nước “chè hai” đích thực là cái kết có hậu cho một mùa mía đường dài dặc trong kí ức ấu thơ…
Quê giờ sừng sững mọc lên một nhà máy đường ngốn mỗi ngày hàng ngàn tấn mía. Lò nấu thủ công chỉ còn lại kí ức. Vùng nguyên liệu vẫn là những ruộng mía quen thuộc ngày xưa, có điều không bóng dáng người canh. Canh làm gì, giống mía lai nguyên liệu ngày nay trữ lượng đường cao nhưng thân cứng còn hơn đá; bập vào chắc sẽ… gãy răng nên mấy ai buồn trộm? Ghé quán bên đường ngồi uống li nước mía, hỏi thăm mua giống “mía mềm” ở đâu, người ta chỉ tận một nơi xa lắc xa lơ. Ô hay, cái “xứ mía” bạt ngàn ngày xưa giờ lại không thể tìm mua ra cây mía để ăn. Đương nhiên vị của bát nước “chè hai” lại càng phải lội sâu vô quá khứ mà tìm...