Đà Nẵng lọt top điểm đến cho khách “đi một mình”

Văn hóa - Thể thao 25/03/2025 08:57
Lò nhóm lên, lửa than được gió từ ống bễ tiếp sức chẳng mấy chốc đã cháy bùng, nóng rực. Cần mẫn và tỉ mẩn, miệt mài và chau chuốt, nâng niu và tấm tắc, những miếng thép dần tạo thành nhiều sản phẩm từ nông cụ, các sản phẩm nhà bếp cho đến các sản phẩm độc đáo khác. Những làng rèn còn lại ở xứ cố kinh vẫn âm thầm tồn tại như thế đã mấy trăm năm.
Xứ Huế bây giờ chỉ còn vài làng rèn đếm trên đầu ngón tay, mà trong số những làng rèn vang danh một thuở ấy có làng chỉ còn lại đúng 1-2 hộ làm nghề, như làng rèn Hiền Lương ở huyện Phong Điền. Và chẳng mấy người biết rằng, làng rèn Hiền Lương ấy có tuổi đời ngót nghét 500 năm và đây cũng là làng rèn khởi nguồn của những làng rèn Cầu Vực (thị xã Hương Thủy), hay làng rèn Bao Vinh (phường Hương Vinh, TP Huế) sau này.
![]() |
Từ lâu, nghề rèn đã trở thành nét văn hóa trong đời sống của người dân phố cổ Bao Vinh |
Bắt đầu từ những sản phẩm đơn giản như xà beng, búa tạ, vót, dao, liềm... để phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp, người làng rèn ở phố cổ Bao Vinh hay làng rèn Cầu Vực đều rèn mọi thứ thủ công bằng chính đôi bàn tay khéo léo và kinh nghiệm của mình. Làm nghề nào cũng có nỗi cực nhọc riêng, có yêu nghề mới có thể làm kế sinh nhai được. Người thợ rèn nào cũng tâm niệm điều ấy. Từ cậu phụ việc tuổi mười bảy cho tới bậc lão niên có 50-60 năm kinh nghiệm rèn cũng vậy. Nghề rèn thủ công chủ yếu dựa vào đôi tay, những nhát búa nặng hay nhẹ đều ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Cái tinh túy của nghề không phải chỉ được chắt lọc qua thời gian, mà qua chính sự dụng tâm của người thợ trong mỗi bước rèn. Công việc tưởng chừng đơn giản nhưng đã là thợ rèn đòi hỏi phải có sức khỏe dẻo dai, bền bỉ và lòng kiên trì, nhẫn nại mới có thể bám trụ được với nghề.
Ngày trước khi công nghệ rèn chưa phát triển, nghề rèn ở Bao Vinh hay Cầu Vực là nghề có nhiều người theo, sản phẩm làm ra cũng rất đa dạng với số lượng lớn. Sản phẩm khi hoàn thiện được thương lái thu mua, chất lên thuyền rồi xuôi theo dòng Hương xuống Kinh đô, ra phía biển rồi vào Nam ra Bắc.
![]() |
Các lò rèn ở xóm rèn Bao Vinh thường đồng loạt nổi lửa vào buổi sáng với tiếng quai búa vang dậy cả một góc phố cổ. |
Tuy nhiên, theo thời gian, với sự phát triển của khoa học công nghệ, nghề rèn đối diện với nhiều khó khăn, qua nhiều thăng trầm, rồi sự chuyển đổi từ nghề rèn sang các ngành nghề cơ khí khác giúp tăng thu nhập lại đỡ vất vả hơn đã thu hút nhiều người, nhiều gia đình không còn làm nghề rèn truyền thồng nữa.
Những người thợ còn lại tại đây vẫn trung thành với việc sản xuất nông cụ dẫu phải vất vả lắm mới sống được bằng nghề. Ai cũng than vãn rằng khó lắm! Bây giờ cày bừa đã có máy. Cái kéo, cái dao thì hàng Trung Quốc, hàng Thái Lan tràn vào, sáng choang mà lại rẻ, đồ rèn thủ công không cạnh tranh nổi. May ra còn có cái rựa, cái dao xắt chuối, dao bổ cau hay dao làm giày... là chưa thấy ai nhập về.
Từ lâu, nghề rèn đã trở thành nét văn hóa trong đời sống của người dân phố cổ Bao Vinh. Bao Vinh ngày trước có cả trăm hộ rèn, bây giờ còn chừng 11 hộ. Hay ở làng rèn Cầu Vực lớn nhất nhì xứ Huế trước đây, số hộ chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.
![]() |
Những người làm nghề rèn không ngừng cải tiến kĩ thuật, mẫu mã, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. |
Rèn thủ công ở xứ Huế còn sống được là nhờ chất lượng nằm trong mỗi sản phẩm. Cùng với đó, cái tâm của những thợ rèn cũng được đặt hết vào lò lửa với niềm hi vọng bễ rèn không bao giờ nguội lạnh. “Nghề của làng không chết được. Có nhà không còn đỏ lửa thường xuyên, nhưng họ đều giữ bệ, giữ lò. Con cái có làm chi đi nữa, nhưng khi cần là đỏ lửa lên ngay, vẫn gõ, vẫn quai như thường”, nghệ nhân Huỳnh Thế Tiến ở làng rèn Cầu Vực chia sẻ. Huỳnh Thế Tiến có lẽ là người đầu tiên, và duy nhất đến tận bây giờ làm nghề rèn ở xứ Huế được phong nghệ nhân. Anh là chủ cơ sở rèn duy nhất của làng nghề rèn Cầu Vực đã viết hẳn đề án, rồi bán đất, mượn tiền, xin vốn… để giữ cho được lửa lò rèn của gia đình và cho làng rèn.
Hiện nay, các lò rèn ở xóm rèn Bao Vinh vẫn thường đồng loạt nổi lửa vào buổi sáng với tiếng quai búa, bệ lò, âm thanh va chạm của kim loại vang dậy cả một góc phố cổ. Nhiều người trong làng nghề dẫu mệt nhưng vui vì vẫn còn nghe nhịp búa đều đều từ những lò lửa. Buổi chiều, phần lớn các lò rèn ngừng nghỉ để người nhà mang sản phẩm rèn đi giao ở nơi khác hoặc mang ra chợ bán.
Ông Trương Tiến Nhật, một thợ rèn nhiều năm kinh nghiệm ở làng rèn Bao Vinh chia sẻ, duy trì được việc này nhờ người thợ rèn không thể dứt bỏ nghề truyền từ bao đời nay, cũng như trong nhà có người làm và có nơi tiêu thụ sản phẩm đều đặn tại các chợ đầu mối và còn xuất khẩu nữa. Sản phẩm rèn là các công cụ cầm tay phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng, sinh hoạt, như: Cuốc, xẻng, dao, rựa, bay, kéo, bào, lề, răng bừa, liềm... và đã có mặt tại các thị trường lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Tây Nguyên.
![]() |
Nghề rèn và những sản phẩm rèn truyền thống cũng có sức hấp dẫn riêng. |
Ở Cầu Vực hay Bao Vinh bây giờ luôn rộn rã tiếng cười, tiếng chan chát của đe búa. Xã hội phát triển hơn, thị trường tiêu thụ ngày càng được mở rộng nên những người làm nghề rèn ở đây không ngừng cải tiến kĩ thuật, mẫu mã, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Ông Trương Thái, tổ trưởng tổ dân phố Bao Vinh, là một trong những cư dân phố cổ gần như gắn bó trọn đời mình với nghề rèn nơi đây. Ông cũng là thợ rèn lành nghề năm nay hơn 60 tuổi. “Dẫu nhiều khốn khó và nặng nhọc, nhưng người dân trong xóm nhờ nghề này đã phát triển kinh tế và ổn định cuộc sống, vừa có thu nhập lại vừa giữ được nghề của cha ông truyền lại”, ông Thái chia sẻ. Giữ nghề truyền thống của cha ông, người dân nơi đây luôn nêu cao ý thức gìn giữ, khôi phục và phát triển nghề rèn theo hướng hàng hóa, mở ra một hướng đi bền vững trong bối cảnh kinh tế hội nhập như hiện nay.
Làng nghề rèn truyền thống Cầu Vực, làng nghề rèn Bao Vinh được UBND tỉnh Thừa Thiên Huế công nhận là làng nghề truyền thống. Việc được công nhận danh hiệu này không chỉ có ý nghĩa to lớn về mặt tinh thần, mà còn “đánh thức” niềm tự hào nghề nghiệp trong mỗi nghệ nhân, người thợ thủ công, đồng thời đó còn là điều kiện giúp các làng nghề được hưởng nhiều chính sách “tiếp sức” từ Nhà nước về phát triển ngành nghề, mặt bằng sản xuất, đầu tư tín dụng; xúc tiến thương mại, khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, cung cấp thông tin và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Phát triển du lịch kết hợp làng nghề luôn là môt bài toán khó đối với người dân cũng như chính quyền địa phương, nhưng đó cũng là một tiềm năng đang và sẽ phát triển giống như ánh lửa lò than tại làng rèn vẫn luôn luôn đỏ lửa.