Già hóa cùng phẩm giá: Tăng cường Hệ thống Hỗ trợ và Chăm sóc NCT trên toàn thế giới
Vấn đề hôm nay 27/09/2024 14:13
Phó Chủ tịch Thường trực Hội NCT Việt Nam Trương Xuân Cừ (thứ 6 từ trái qua) cùng Đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị |
Sự già hóa dân số là một xu hướng toàn cầu quan trọng đang tái định hình cơ cấu dân số của các quốc gia trên toàn thế giới. Sự thay đổi đáng kể này trong cấu trúc tuổi của dân số là kết quả của việc giảm tỉ lệ sinh và tăng tuổi thọ. Ngày nay, tuổi thọ kì vọng khi sinh đã vượt quá ngưỡng 75 năm ở một nửa số quốc gia hoặc khu vực trên thế giới, cao hơn 25 năm so với chỉ số này của những người sinh ra vào năm 1950. Những người đạt đến tuổi 65 hiện nay dự kiến sẽ sống thêm trung bình 16,8 năm nữa. Vào năm 2018, một cột mốc lịch sử đã được đạt được khi số NCT lần đầu tiên vượt qua số trẻ em dưới năm tuổi trên toàn cầu. Đến năm 2030, số NCT trên toàn cầu dự kiến sẽ vượt qua số thanh niên và gấp đôi số trẻ em dưới năm tuổi. Sự gia tăng này được dự đoán sẽ diễn ra nhanh nhất ở các nước đang phát triển(1).
Phó Chủ tịch Phan Văn Hùng làm Trưởng Đoàn công tác của Trung ương Hội NCT Việt Nam sang thăm, làm việc tại Công hòa Liên bang Đức |
Trước sự thay đổi nhân khẩu học toàn cầu này, bối cảnh về ngành chăm sóc đang trải qua những biến đổi đáng kể, bao gồm một loạt các nhu cầu hỗ trợ cả trả phí và không trả phí, trong cả môi trường chính thức và không chính thức. Những thập kỉ gần đây đã chứng kiến sự thay đổi trong cách sắp xếp cuộc sống của các gia đình và NCT ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Kết hợp với xu hướng già hóa chung, điều này đã làm tăng nhu cầu về các hình thức cung cấp dịch vụ chăm sóc khác nhau. Trong khi đó, sự gia tăng số lượng của người chăm sóc không theo kịp với nhu cầu về chăm sóc dài hạn. Tính đến năm 2015, thế giới thiếu khoảng 13,6 triệu nhân viên chăm sóc chính thức(2). Những thiếu hụt này dẫn đến việc một nửa dân số cao tuổi trên toàn cầu không được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc dài hạn chất lượng.
Mô hình CLB LTHTGN, một sáng kiến của Việt Nam ứng phó già hóa dân số |
Cùng với quá trình già hóa dân số, nhu cầu về dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện, chăm sóc và hỗ trợ xã hội cũng tăng lên đáng kể. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những NCT mắc các bệnh như sa sút trí tuệ, một nguyên nhân hàng đầu gây phụ thuộc vào chăm sóc và khuyết tật ở tuổi già trên toàn thế giới(3). Nhu cầu về chăm sóc chuyên biệt đã trở thành một phần không thể thiếu trong các yêu cầu chăm sóc sức khỏe rộng lớn hơn của dân số cao tuổi. Tuy nhiên, hầu hết các nhân viên chăm sóc, cả trả phí và không trả phí, đều chưa được đào tạo đầy đủ để đáp ứng những nhu cầu phức tạp này. Do đó, có một nhu cầu cấp bách trên toàn thế giới về việc mở rộng cơ hội đào tạo và giáo dục trong các lĩnh vực lão khoa và lão học cho các chuyên gia y tế, chuyên gia chăm sóc xã hội và những người chăm sóc không chính thức làm việc với NCT.
Mô hình CLB LTHTGN, một sáng kiến của Việt Nam ứng phó già hóa dân số |
NCT là một nhóm không đồng nhất với các nhu cầu sức khỏe đa dạng, đòi hỏi các mức độ chăm sóc và hỗ trợ khác nhau. Theo truyền thống, gánh nặng chăm sóc thường rơi vào các thành viên trong gia đình đa thế hệ sống chung, tức là dựa vào gia đình như một hệ thống hỗ trợ không chính thức. Tuy nhiên, những thay đổi về quy mô và động lực gia đình, sự già hóa dân số và các xu hướng xã hội và kinh tế khác đang làm suy yếu các hệ thống hỗ trợ truyền thống này. Những tác động đối với xã hội và cá nhân phụ thuộc đáng kể vào loại hình chăm sóc cần thiết và ai là người cung cấp nó. Phụ nữ là nhóm đa số trong cả những người được chăm sóc và tham gia chăm sóc, đóng góp khoảng 70% số giờ chăm sóc không chính thức toàn cầu(4). Điều này đặc biệt đúng ở các nước thu nhập thấp và trung bình, nơi các chính sách và dịch vụ chăm sóc chưa được quan tâm đúng mực, khiến phụ nữ dễ bị tổn thương hơn khi trải qua cảnh nghèo đói ở tuổi già. Những người chăm sóc gia đình thường phải gánh vác nhiều trách nhiệm cùng lúc, khiến họ phải làm việc quá sức và có nguy cơ gây suy giảm trong chất lượng chăm sóc.
Mô hình CLB Liên thế hệ tự giúp nhau, một sáng kiến của Việt Nam ứng phó già hóa dân số |
Như đã được nêu ra trong các cuộc kiểm tra của Nhóm Công tác Mở của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc về Già hóa, một số quyền liên quan đến chăm sóc và hỗ trợ được bảo đảm rõ ràng trong các hiệp ước nhân quyền hiện có, chẳng hạn như an sinh xã hội và giáo dục, trong khi những quyền khác như chăm sóc và hỗ trợ dài hạn thì không(5). Bảo vệ quyền con người của cả người chăm sóc và người được chăm sóc là một yếu tố cơ bản để thực hiện các chiến lược chăm sóc hiệu quả. Và cần phải có sự công nhận và đánh giá cao những đóng góp đa dạng của người chăm sóc. Những đóng góp này bao gồm từ các thành viên gia đình cung cấp chăm sóc không trả phí đến các chuyên gia cung cấp các dịch vụ hướng đối tượng, bao gồm chăm sóc giảm nhẹ, phục hồi chức năng và chăm sóc dài hạn. Cần có tư duy mới về các phương pháp tiếp cận trong hệ thống chăm sóc và hỗ trợ để mang lại lợi ích cho NCT ngày nay và những người chăm sóc họ, cũng như các thế hệ NCT trong tương lai. Hệ thống chăm sóc và hỗ trợ cho NCT nên được điều chỉnh theo nhu cầu, giá trị và sở thích của cả người được chăm sóc và người chăm sóc. Chúng nên vượt ra ngoài các khía cạnh y tế của chăm sóc, để áp dụng phương pháp tiếp cận vòng đời bao gồm văn hóa, lịch sử cuộc sống, mạng lưới hỗ trợ xã hội và bản sắc của một cá nhân, và trao quyền cho người nhận chăm sóc kiểm soát các quyết định chăm sóc.
Các quốc gia thành viên nên theo đuổi một cách tiếp cận chăm sóc công bằng hơn, lấy con người làm trung tâm, bảo vệ quyền con người của cả người chăm sóc và người được chăm sóc. Cách tiếp cận này cần có sự đồng nhất và phối hợp giữa các chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự, cộng đồng và hộ gia đình, cũng như khu vực tư nhân, để giải quyết các nhu cầu trong việc cung cấp cả chăm sóc chính thức và không chính thức(6).
------------------------
(1) DESA (2022), World Population Prospects 2022
(2) DESA (2023), World Social Report 2023 Leaving No One Behind In An Ageing World
(3) WHO (2021), Global Status Report on the Public Health Response to Dementia
(4) Như trên
(5) A/HRC/49/70
(6) DESA (2023), Policy Brief No. 143 Caregiving in an Ageing World