Chuyện tình và sự vươn lên của vợ chồng thương binh nặng thời hậu chiến
Đời sống 08/12/2025 10:04
Hơn 400 năm trước, theo đoàn người Nam tiến mở nước, thời vua Lê Thánh Tông, nơi Dinh trấn Thanh Chiêm (phường Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cũ, nay là phường Điện Bàn, TP Đà Nẵng) đã có một phường nghề do tổ nghề Dương Tiền Hiền tạo dựng. Đến cuối thế kỉ XVIII, ở đây đã hình thành hai khu vực là phường tạc tượng Đông Kiều và phường chú tượng Phước Kiều. Đến đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn sáp nhập 2 phường lại thành “xã hiệu Phước Kiều”, còn được gọi là phường đúc đồng Phước Kiều.
Dưới triều nhà Nguyễn, các nghệ nhân giỏi từ làng đúc đồng Phước Kiều được mời về kinh đô Huế để đúc các tác phẩm nghệ thuật trang trí và nhiều đồ gia dụng khác. Làng xưa giờ đã thành phố thị, nhưng nghề đúc đồng vẫn nhộn nhịp. Dòng họ làm nghề đúc đồng ở Phước Kiều chủ yếu là dòng họ Dương nối tiếp truyền đến 7-8 đời. Cứ thế đời sau tiếp nối đời trước, cùng với con cháu dòng họ Dương, làng quy tụ được thêm nhiều người yêu nghề đúc đồng của các tộc họ khác, mang đồ đồng Phước Kiều đến với nhiều vùng trên cả nước.
![]() |
| Những lò đồng vẫn đỏ lửa dẫu thăng trầm của thời gian. |
Tỉ mỉ đắp đất tạo khuôn đúc, ông Dương Ngọc Minh (62 tuổi) chia sẻ: “Người đúc đồng phải có nhiều kiến thức về kĩ thuật từ luyện kim, hội họa, tôn giáo. Ngoài cái tâm của người làm nghề, còn đòi hỏi sự khéo léo, chăm chỉ và hết sức cẩn trọng mới có thể tạo ra những sản phẩm mang cái hồn, cái thần của chính nó”. Chính vì thế, các vật dụng thờ cúng như đèn đồng, lư hương, mâm đồng khắc cá chép vượt vũ môn đến những nhạc cụ truyền thống như chiêng, cồng, mã la... mỗi sản phẩm đều được chế tác thủ công tỉ mỉ mang dấu ấn riêng, thể hiện chiều sâu văn hóa và bản sắc dân tộc.
Nghệ nhân ưu tú Dương Ngọc Thắng, 72 tuổi, truyền nhân đời thứ 4 làng Phước Kiều bộc bạch, người thợ đúc Phước Kiều tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm phục vụ cho việc tế lễ, hội hè và vật dụng sinh hoạt hằng ngày và một số nhạc cụ bằng đồng, đặc biệt là cồng, chiêng. Hiện trong số 7 nghệ nhân của làng đúc đồng Phước Kiều, chỉ có 3 nghệ nhân đúc và thẩm âm được cồng, chiêng Tây Nguyên.
Theo Nghệ nhân ưu tú Dương Ngọc Thắng, để làm ra một chiếc cồng hay chiêng chuẩn, không chỉ cần đôi bàn tay khéo léo mà còn cần đôi tai tinh tường. Việc thẩm âm đòi hỏi nghệ nhân phải có kinh nghiệm và cảm âm tốt để điều chỉnh độ dày, độ cong sao cho tiếng vang đúng sắc âm mà người đặt hàng yêu cầu.
![]() |
Hiện nay đã có công nghệ hiện đại với máy móc tiên tiến phục vụ sản xuất, giúp giá thành giảm, nhưng phương pháp đúc đồng truyền thống vẫn luôn được ưa chuộng. Vì những người thợ thủ công của làng nghề luôn tỉ mỉ, cẩn thận trong từng chi tiết mới tạo ra những sản phẩm có hoa văn tinh xảo, kiểu dáng độc đáo. Tuy giá thành cao hơn sản phẩm công nghiệp, nhưng điều làm nên “hồn cốt” của sản phẩm thủ công thì không có máy móc tối tân nào thay thế được. Trong làng bây giờ vẫn còn nhiều nghệ nhân, người đã tóc bạc da mồi, người cũng chòm chèm 40-50 năm với nghề. Nổi tiếng như ông Dương Nhi, Dương Ngọc Sang, Dương Ngọc Tiển, Dương Ngọc Thắng, Dương Ngọc Minh... đã nối nghiệp cha ông, dày công làm cho nghề đúc đồng khởi sắc trở lại.
Sau khi thống nhất đất nước, để vực dậy làng nghề vốn rệu rã do chiến tranh, ông Dương Ngọc Sang kêu gọi người dân trong làng thành lập HTX, với trên 50 hộ tham gia. Nhưng chỉ được một thời gian, nhiều người bỏ nghề kiếm công việc khác. Riêng ông Sang và một số NCT trong làng vẫn gắn bó với nghề. Những người thế hệ sau là ông Dương Ngọc Tiển, Dương Ngọc Thắng,... lại tiếp nối nghề. Để phù hợp với thời cuộc, năm 2000, ông Dương Ngọc Thắng đã thành lập Công ty TNHH Làng đúc đồng truyền thống Phước Kiều. Còn lão nghệ nhân Dương Ngọc Tiển cũng dành hết vốn liếng và đam mê nghề nghiệp cho Công ty TNHH Du lịch - Thương mại Đồng Phước Kiều (thành lập năm 2004).
![]() |
| Nghệ nhân ưu tú Dương Ngọc Thắng, truyền nhân đời thứ 4 làng Phước Kiều cùng những nghệ nhân khác vẫn giữ lửa cho làng nghề. |
Nghề đúc đồng là một nghề khó, yêu cầu cao về kĩ thuật và kinh nghiệm. Song, phải có một niềm say mê với nghề truyền thống của cha ông truyền lại, thì người thợ mới có thể gắn bó với nghề, tạo ra những sản phẩm có tính thẩm mĩ và giá trị nghệ thuật cao. Ngoài những sản phẩm truyền thống như cồng, chiêng, lư đồng…, trong xu thế hội nhập thời đại mới, làng đúc đồng Phước Kiều cũng đang nỗ lực làm mới mình, sáng tạo ra nhiều mẫu mã mới, đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của khách hàng với các mặt hàng nội, ngoại thất mĩ nghệ tinh xảo, lạ mắt như đèn lồng, khay đồng chạm trổ hoa văn, gạt tàn thuốc hình búp sen, tượng Phật, lân, sư, rồng…. Thị trường của phường đúc này không chỉ ở trong nước mà còn từ các nhà hàng, khách sạn lớn ở các quốc gia như Anh, Úc, Canada… Cùng với đó, có những sản phẩm xác lập kỷ lục Việt Nam như cặp súng thần công theo nguyên mẫu thời Nguyễn, chiếc đồng hồ nước bằng đồng cao 2,5m với tổng trọng lượng 500kg, hay nồi lư đồng nặng tới 1.500 tấn, đây là sản phẩm tiêu biểu mang hình ảnh những sản vật trong cung đình Huế. Đặc biệt, Đại Hồng Chung (chuông đồng lớn) đặt tại Nghĩa trang liệt sĩ thị xã Điện Bàn (2017) do ông Dương Ngọc Thắng huy động hơn 40 nghệ nhân giỏi chung tay góp sức làm trong 4 tháng. Quả chuông lớn cao 2,3 m, dày 50 mm, đường kính 1,3 m và nặng hơn 2 tấn, thân chuông còn đúc những hình tượng văn hóa và lịch sử của vùng đất Điện Bàn, cùng hình ảnh Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ, quê ở Điện Bàn, có 11 người con và cháu hi sinh cho độc lập, tự do của dân tộc.
Hiện làng đúc đồng Phước Kiều đã trở thành một địa điểm tham quan du lịch nổi tiếng với vị trí địa lí thuận lợi, nằm kề bên Quốc lộ 1A và trên trục nối hai Di sản văn hoá thế giới là Đô thị cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn. Du khách được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những sản phẩm chế tác tinh xảo, còn được tận mắt chứng kiến các công đoạn sản xuất, đúc đồng truyền thống. Bây giờ, những nghệ nhân của làng đúc Phước Kiều không những sống được với nghề, mà còn đóng góp quan trọng trong việc nâng tinh hoa nghề lên một tầm cao mới, khôi phục, bảo tồn, phát triển thương hiệu đúc đồng Phước Kiều, làm rạng danh nghiệp tổ của cha ông.