Về bản Mông ở Tây Nguyên
Văn hóa - Thể thao 26/09/2019 10:25
Cách Quốc lộ 26 gần 10 km, thuộc xã Cư Króa, huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk có rất đông đồng bào người Mông di cư vào sinh sống từ nhiều năm qua. Họ yêu thương đùm bọc nhau, đoàn kết chung lòng xây dựng quê hương mới và vẫn giữ được lối sống, trang phục truyền thống.
Người Mông nơi đây phần đông quê ở Bắc Hà, Lào Cai vào đây từ năm 1998. Họ tập trung tại Thôn 7, xã Cư Króa với 187 hộ (99% là người Mông), kinh tế còn nhiều khó khăn do trình độ văn hóa thấp, lại đông con. Thế nhưng, hàng chục năm qua nơi đây vẫn là “chốn quê nhà” của những người di cư từ miền núi phía Bắc vào. Với họ, mảnh đất này chính là quê hương thứ hai, gắn bó máu thịt không khác gì quê cũ.
Trong những năm qua chúng tôi luôn được sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và Nhân dân địa phương đã mở đường, xây trường học, kéo hệ thống lưới điện, có nhà sinh hoạt cộng đồng… chăm lo các công việc làm ăn như trồng lúa nước, trồng sắn, trồng rừng, do đó đời sống của đồng bào từng bước được ổn định. Nhiều hộ gia đình xây được nhà to, nhà sàn kiên cố, mua sắm xe máy loại đắt tiền.
Anh Thào Rìu Sẻng cười khi nói chuyện với chúng tôi: “Lúc đầu mới cưới, vợ chồng mình còn trẻ chưa có tiền, kinh nghiệm nên phải ở với ba mẹ. Vợ chồng mình đi làm rẫy, nuôi mấy con gà, một thời gian thì tự dựng nhà ra ở riêng. Nhà nghèo nên bố mẹ hai bên cũng không giúp được gì nhiều, chủ yếu là công sức gầy dựng của vợ chồng mình thôi. Ở quê cũ không có đất để trồng, nhưng vào M’Drăk thì đất nhiều lắm, tha hồ trồng mía, trồng mì không đói ăn như ngoài Bắc nữa”.
Ông Giàng Seo Chấu, Trưởng ban Công tác mặt trận của thôn 7 cho biết: “Thôn chúng tôi hiện nay có khoảng 187 hộ, 833 khẩu, trong đó có 145 hộ đã có hộ khẩu thường trú".
Dân số đang là vấn đề làm đau đầu những người lãnh đạo ở địa phương. |
Về xã Cư Króa thời điểm này, tấp nập những chuyến xe ra vào chở gỗ rừng trồng đi tiêu thụ. Trên những triền đồi là những hàng keo lai thẳng tắp, xanh tốt. Ông Nguyễn Văn Song, Chủ tịch UBND xã Cư Króa phấn khởi khoe: Từ khi gỗ rừng trồng có giá, bộ mặt nông thôn ở Cư Króa đã thay đổi, có đến 70% hộ dân ở địa phương có diện tích đất trồng rừng, một số hộ dân nhờ đó trở thành tỉ phú, trong đó, hộ bà Vân là một điển hình về trồng rừng, gắn bó lâu dài với rừng và giàu lên từ rừng.
Mặc dù có sự vào cuộc đồng bộ của các ngành, các cấp, cùng sự nhiệt tình của đội ngũ cán bộ y tế - dân số trong việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách nhưng công tác dân số ở Cư Króa (Đắk Lắk) vẫn gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân là do xã Cư Króa có địa bàn rộng với diện tích tự nhiên 20.895 ha, địa hình phức tạp, trình độ dân trí không đều. Nhưng đáng lo ngại hơn cả vẫn là phong tục tập quán thích sinh đông con và phải có con trai vẫn còn tồn tại, đặc biệt ở thôn 7, thôn 9, nơi có 100% dân số là người dân tộc Mông.
Hằng năm, tỉ lệ trẻ em sinh ra là con thứ 3 trở lên chiếm 19%, tình trạng gia tăng dân số, tảo hôn vẫn còn diễn ra. Theo ghi nhận từ chính quyền địa phương thì trong vài năm qua, xã vẫn có 4 cặp vợ chồng cưới nhau khi chưa đủ tuổi kết hôn. Có nhiều người lên chức cha, chức mẹ khi chưa đủ tuổi kết hôn. Ở đây người ta quan niệm con cái phải lấy vợ lấy chồng sớm là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tảo hôn. Lễ cưới của những cặp vợ chồng tảo hôn diễn ra giống những đám cưới khác, tức vẫn làm cỗ, vẫn ra mắt tổ tiên, có điều đám cưới lớn hay bé thì còn tùy thuộc vào độ giàu có của gia chủ.
Đơn cử như trường hợp vợ chồng anh Giàng Seo Lành (38 tuổi) và chị Hoàng Thị Pa (35 tuổi) ở thôn 7 cưới nhau năm 1995, đến nay có với nhau 9 đứa con. Mặc dù nhiều lần được cán bộ dân số tuyên truyền, tư vấn các biện pháp tránh thai, nhưng họ đều không chịu áp dụng.
Ông Nguyễn Văn Song, Chủ tịch UBND xã Cư Króa không giấu nổi sự thất vọng: Tình trạng tảo hôn vẫn còn ở một số nơi trong huyện. Hằng năm, chúng tôi tổ chức rất nhiều buổi tuyên truyền, phổ biến pháp luật để hạn chế tình trạng trên, nhưng do một số đồng bào dân tộc thiểu số từ phía Bắc vào và một số đồng bào địa phương nếp ăn, nếp nghĩ đã ăn sâu nên rất khó thay đổi. Sắp tới chúng tôi sẽ quyết liệt hơn và sâu sát hơn.
Những chính sách và ưu đãi của nhà nước như điện, đường, trường, trạm đã tới được những vùng sâu xa nhất của đất nước, thông tin luôn được cập nhật, nhưng đó đây những hủ tục vẫn còn tồn tại. Thiết nghĩ, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở những nơi như thế này cần được quan tâm hơn nữa.