Người già Cơ Tu lên rẫy...
Đời sống 28/11/2019 09:57
Già Mạc Văn Tơ, 80 tuổi, ở xã Ba, huyện Đông Giang, cho hay, nông lịch của người Cơ Tu theo âm lịch, phân ra 4 mùa chính. Mùa Xuân (h’noo ha pruốt) bắt đầu thời vụ sản xuất nhưng chưa tập trung. Đàn ông săn bắt thú trong rừng, đàn bà làm cỏ ở rẫy cũ để trồng bắp, gieo cải… đến đầu tháng Giêng bắt đầu phát rẫy. Mùa Hè (h’noo ch’noọng blợng), tháng 4 - 5 tập trung đốt rẫy, tỉa, làm cỏ… Mùa Thu (h’noo c’lóch), vào tháng 6 - 7 mùa vụ tạm xong, nước suối cạn, phụ nữ Cơ Tu đi bắt cá. Cuối tháng 7 đầu tháng 8, thu hoạch lúa ba trăng, trời có mưa gió, đàn ông ở nhà đan lát, sắm sửa dụng cụ bắt chim; đàn bà dệt thổ cẩm, kiếm củi dự trữ cho mùa Đông. Mùa Đông (h’noo ha’ót), đàn bà thu hoạch lúa mùa, đàn ông săn bắt chim thú ở núi cao.
Già làng Alăng Avel, 87 tuổi, thôn Tà Làng, xã Bhalêê, huyện Tây Giang cho biết, người Cơ Tu có kinh nghiệm xem ngày tốt xấu để nên làm việc gì, tránh việc gì. Mùa trăng sáng (loóh), nếu chặt cây tươi về dùng sẽ bị mọt ăn, còn chặt vào mùa trăng khuyết (pắt) thì không. Nếu trồng sắn vào đầu và cuối tháng củ nhỏ, rễ nhiều, năng xuất kém; trồng từ ngày 10 - 20 thì năng suất, chất lượng cao. Đồng bào thích làm rẫy mới ở rừng già, đất tơi xốp, tuy phải hạ cây lớn nhưng đất tốt, có tầng lá mục dày nên độ phì cao. Người Cơ Tu thường chọn đất tốt bằng cách tìm nơi có nhiều con ễnh ương (tă’ băr) sinh sống, coi nó là sứ giả mang lại ấm no vì nơi ấy đất có độ ẩm cao, cây trồng phát triển, mùa màng bội thu…
Phụ nữ Cơ Tu nuôi heo |
Theo già làng Nguyễn Văn Cần, 73 tuổi, Chi hội trưởng NCT thôn Phú Túc, xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng, người Cơ Tu theo chu kì của mặt trăng gọi là “c’xêê abhướp” làm nông lịch để ấn định công việc nương rẫy. Nông lịch không ghi trên sổ sách nhưng các bậc cao niên đều biết tháng nào thì phát rẫy, đốt rẫy, dọn, tỉa, tháng nào làm cỏ, thu hoạch... Nông lịch còn quy định việc lấy mật ong, bẫy thú rừng, bẫy chim, bắt cá, bắt dơi, bắt mối, làm rượu tà vạt, rượu tr’đin... Vào tháng 4, 5, sau khi đốt rẫy và các cơn mưa dông chiều đã dứt, già làng và những người có kinh nghiệm nhìn trăng, mây và số lượng các ngày mưa dông đã qua để tính toán thời gian tỉa lúa. Ngày trước, khi tỉa lúa, chủ làng (Tao Bươi, Ta Co Vel) tỉa "làm phép" 6 hạt thóc đầu tiên, sau đó các thành viên trong làng mới được tỉa lúa của gia đình mình. Trong gia đình thì người trông giữ thóc giống (người đàn bà lớn tuổi nhất, "amế càtừng hàrò" - người mẹ giữ lúa) sẽ là người tỉa những hạt lúa đầu tiên.
Già Tơngôl Aping, 66 tuổi, trú tại thôn Pà Ting, xã Tà Bhing, huyện Đông Giang cho hay, do đặc điểm núi dốc, độ phì dễ bị trôi rửa, thông thường đối với rẫy mới đồng bào làm 2 vụ lúa, 1 vụ mùa sắn hoặc bắp rồi để đất rẫy phục hồi (hưu canh). Đối với rẫy luân canh thì chỉ làm một vụ lúa, không sản xuất vụ thứ hai. Khi gieo lúa, họ xen canh cây bắp, các loại rau đậu để có cái ăn khi chờ lúa chín. Khi chọn đất làm rẫy cần tránh những vùng núi có độ dốc lớn, ven sông suối dễ bị sạt lở và trôi lớp đất tốt khi có mưa lớn. Chọn được đất, vào tháng 2 âm lịch sẽ phát rẫy và tháng 4, tháng 5 đốt rẫy. Phát rẫy phải phủ cây cỏ khắp nương, để khi đốt lớp tro than rải đều. Sau đốt rẫy, thú rừng như nai, mang… thường về ăn tro nên đồng bào đặt bẫy hoặc săn bắt. Trong chăn nuôi, đồng bào có kinh nghiệm nuôi trâu, bò trong khu rừng có địa thế cô lập. Vật nuôi tự đi tìm thức ăn, đồng bào chỉ cho ăn một lần vào buổi chiều với các loại thức ăn cố định để giữ đàn.
Ngày nay, theo chủ trương định canh, định cư của Nhà nước, đồng bào bỏ tập tục phá rừng làm rẫy, nhưng khi trồng lúa trên nương vẫn canh tác theo “kinh nghiệm” xưa. Những chân ruộng gieo cấy lúa nước, đồng bào tuân thủ theo lịch gieo sạ của ngành nông nghiệp địa phương nhằm tăng năng suất cây trồng.