Hội CCB Trung ương Hội NCT Việt Nam tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ 2025–2030
Vấn đề hôm nay 31/12/2025 18:06
![]() |
| Hội thảo khoa học “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới”, được tổ chức vào ngày 15/11/2025, tại Hà Nội |
Người cao tuổi là của quý vô giá của dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm sâu sắc với người cao tuổi, coi đây là lực lượng có vai trò đặc biệt trong xã hội. Người khẳng định: “Người cao tuổi là của quý vô giá của dân tộc, của nước nhà”. Tư tưởng ấy không chỉ thể hiện sự trân trọng về phương diện đạo lý, mà còn hàm chứa quan điểm sâu sắc về việc phát huy trí tuệ, kinh nghiệm và nguồn lực xã hội của người cao tuổi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên nền tảng tư tưởng đó, Hiến pháp nước ta đã thể chế hóa vai trò và quyền của người cao tuổi, khẳng định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, xã hội trong việc tôn trọng, bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi. Khoản 3 Điều 37 Hiến pháp 2013 đã Hiến định: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Luật Người cao tuổi năm 2009 cũng khẳng định về vị trí, vai trò và quyền lợi của người cao tuổi. Cho thấy rằng, bên cạnh nhận định người cao tuổi là đối tượng cần chăm sóc thì pháp luật cũng tạo ra các hành lang pháp lý nhất định để người cao tuổi phát huy vai trò trên mọi mặt, phù hợp với khả năng.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về người cao tuổi, xác định rõ định hướng chiến lược đối với người cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng, và gia đình… Kính trọng, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi. Bảo trợ giúp đỡ người cao tuổi gặp khó khăn, cô đơn không nơi nương tựa”. Đây không chỉ là định hướng về an sinh, mà quan trọng hơn là sự khẳng định vai trò, vị thế và giá trị đóng góp của người cao tuổi trong tiến trình phát triển đất nước, nhất là trong bối cảnh già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng.
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta luôn luôn quan tâm sâu sắc tới người cao tuổi và vai trò của người cao tuổi trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát biểu tại buổi gặp mặt người cao tuổi tiêu biểu toàn quốc ở Phủ Chủ tịch (ngày 06/6/2024), Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Người cao tuổi Việt Nam trong mọi thời đại lịch sử luôn xứng danh là rường cột quốc gia, xả thân vì xã tắc, là ngọn đuốc bất diệt thắp sáng tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, trường tồn dân tộc”. Tổng Bí thư đồng thời nhấn mạnh: “Đất nước ta có được cơ đồ vẻ vang, có vị thế và uy tín quốc tế cao như ngày nay, không thể không nói đến sự đóng góp quan trọng của lớp người cao tuổi Việt Nam; Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, người cao tuổi Việt Nam tiếp tục khẳng định là chỗ dựa vững chắc, giữ cho nước nhà ổn định, hòa bình để phát triển bền vững và tiến cùng thời đại”.
![]() |
| Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt người cao tuổi tiêu biểu toàn quốc ở Phủ Chủ tịch (ngày 06/6/2024). Ảnh: Thanh Hà |
Để người cao tuổi phát huy vai trò, trí tuệ, kinh nghiệm trong kỷ nguyên phát triển mới, ngày 20/2/2025, Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 379/QĐ-TTg “Về người cao tuổi tham gia đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp và tạo việc làm”. Trong suốt thời gian qua, Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam cũng đã phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao – Gương sáng”, qua đó đã biểu dương, tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến tiêu biểu trên mọi mặt công tác, qua đó khơi dậy và phát huy tinh thần “Tuổi cao chí càng cao” ở người cao tuổi.
Thực tiễn đó cho thấy, người cao tuổi luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm, chăm sóc, trân trọng. Đồng thời, cũng khẳng định tầm nhìn mới, không còn coi tuổi già là “gánh nặng an sinh” mà tôn vinh, ghi nhận, đánh giá cao vai trò và phát huy tiềm năng, giá trị của người cao tuổi trong phát triển kinh tế, xã hội.
Xã hội siêu già hóa, xã hội siêu kinh nghiệm
Tuổi thọ người dân ngày càng tăng cao, mức sinh giảm đã đưa Việt Nam bước vào quá trình già hóa dân số từ năm 2011, là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Theo cơ sở dữ liệu dân cư của Bộ Công an (7/3/2023), cả nước có gần 17 triệu NCT (khoảng gần 17% dân số), dự báo con số này sẽ đạt 18 triệu vào năm 2030, chiếm xấp xỉ 20% dân số và đạt 28 triệu vào năm 2050. Theo Báo cáo dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2019 – 2069 của Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), đến năm 2036, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ dân số già, chuyển từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già”, khi tỉ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên đạt 14,2%. Thời kỳ dân số già sẽ kéo dài 20 năm từ 2036 đến 2055. Sau đó, từ 2056 đến 2069, Việt Nam có cơ cấu dân số siêu già, tương ứng với tỉ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm trên 21%.
Có thể thấy, chỉ trong một thời gian ngắn, cơ cấu dân số nước ta đã chuyển từ thời kỳ cơ cấu dân số vàng sang xã hội “già hóa” và tiến nhanh tới ngưỡng “xã hội già”, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh kịp thời về chính sách và định hướng phát triển. So với những thách thức xã hội thông thường khác, già hóa dân số tác động trực diện tới nền tảng phát triển quốc gia. Một trong những tác động đó là lực lượng lao động giảm về số lượng, biển đổi về chất lượng, cùng với đó là những áp lực về chi tiêu cho y tế, an sinh và chăm sóc dài hạn cho NCT… Do vậy, nếu không có cách tiếp cận khẩn trương, phù hợp thì “già trước khi kịp giàu” là một nguy cơ hiện hữu.
Nếu già hóa vẫn thường được nhìn nhận như một “gánh nặng”, thì ở nhiều quốc gia, già hóa chính là một trong những động lực thúc đẩy tái cấu trúc mô hình tăng trưởng. Điển hình như tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức đã sớm hình thành và phát triển kinh tế bạc để ứng phó và thích ứng chủ động với già hóa dân số.
Dân số già hóa kéo theo nhu cầu lớn về y tế, dịch vụ, chăm sóc, tài chính, công nghệ, tiêu dùng mới, là những lĩnh vực có thể tạo ra thị trường, việc làm và giá trị gia tăng nếu được định hướng đúng.
Già hóa dân số là xu thế tất yếu đã và đang diễn ra ở nhiều quốc gia. Vấn đề đặt ra ở Việt Nam không phải nằm ở việc dân số có già hóa hay không mà năm ở chỗ nền kinh tế và hệ thống chính sách đã sẵn sàng thích ứng đến đâu, nghĩa là năng lực phản ứng chính sách. Khi già hóa dân số diễn ra nhanh hơn tốc độ thích ứng, bài toán không đơn thuần là đảm bảo an sinh mà trở thành bài toán chiến lược về tăng trưởng, về năng suất và cả về năng lực kiến tạo thị trường.
Nếu một nền kinh tế tiếp cận già hóa ở lăng kính trợ cấp, chăm sóc sẽ nhìn thấy gánh nặng, ngược lại một nền kinh tế tiếp cận già hóa dân số bằng tư duy thị trường sẽ nhìn thấy nhu cầu, động lực và không gian tăng trưởng mới. Với chính sách và mô hình phù hợp, người cao tuổi hoàn toàn có thể trở thành lực lượng tích cực, đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời tạo ra giá trị cho bản thân và cộng đồng.
Tại Hội thảo khoa học “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới”, được tổ chức vào ngày 15/11/2025, GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính Trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương khẳng định: “Người cao tuổi không phải là “gánh nặng” mà là nguồn lực chiến lược. Họ mang trong mình kho tàng kinh nghiệm công tác, văn hóa, đạo đức và các phẩm hạnh khác để giúp vượt qua khỏi các biến động toàn cầu, suy thoái kinh tế hậu đại dịch để vững bước đi vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc”.
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng cho rằng: “Phát triển kinh tế bạc không chỉ là chăm sóc người cao tuổi – mà kiến tạo một mô hình xã hội nhân văn, văn minh, biến thách thức nhân khẩu học thành động lực phát triển mới. Các chính sách được xây dựng cần phải dựa trên khuyến khích, tôn trọng tự do lựa chọn và phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của người cao tuổi”.
![]() |
| GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính Trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu tại Hội thảo khoa học “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới” |
Đóng góp bài viết vào Kỷ yếu Hội thảo, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Đỗ Văn Chiến nhận định, nhu cầu ngày càng gia tăng của người cao tuổi về y tế, dinh dưỡng, thể thao, du lịch, bảo hiểm và công nghệ thông minh đang mở ra một thị trường rộng lớn, giàu tiềm năng. Hơn thế, người cao tuổi không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà còn tiếp tục là chủ thế đóng góp: họ tham gia hỗ trợ gia đình, truyền thụ tri thức, kinh nghiệm, hiến kế cho cộng đồng, thậm chí là tham gia sản xuất và khởi nghiệp. Đây chính là cơ sở để Việt Nam biến thách thức già hóa dân số thành nguồn lực phát triển mới trong giai đoạn tới.
Theo Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội, đòi hỏi cấp thiết hiện nay là Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị phải ban hành và tổ chức thực thi một hệ thống chính sách đồng bộ về an sinh xã hội, y tế, thị trường lao động, khởi nghiệp và dịch vụ thân thiện với người cao tuổi, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho toàn xã hội, đồng thời phát huy tối đa tiềm năng của nhóm dân số ngày càng gia tăng này.
“Phát triển kinh tế bạc không chỉ là một giải pháp ứng phó với xu thế già hóa, mà trước hết và trên hết, đó là một chiến lược phát triển bền vững, nhân văn và bao trùm. Đây chính là con đường để chúng ta chuyển hóa thách thức thành cơ hội, tạo nên một động lực tăng trưởng mới, gắn kết chặt chẽ với mục tiêu công bằng, an sinh và hạnh phúc của toàn dân tộc”, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Đỗ Văn Chiến phân tích, đồng thời cho rằng cần nâng cao nhận thức xã hội về người cao tuổi, theo hướng cần chuyển mạnh từ tư duy “trợ giúp” sang tư duy “phát huy”.
![]() |
| Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan tham luận tại Hội thảo khoa học “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới” |
Tại Hội thảo, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nhận định, già hóa dân số mở ra nguồn lực xã hội khổng lồ, một thế hệ “vàng” về kinh nghiệm sản xuất, quản trị, tri thức nghề nghiệp, có thể kích hoạt “kho báu tri thức” với hàng chục triệu người có kinh nghiệm sản xuất, quản lý, sáng tạo văn hóa – xã hội. Ông cho rằng, đấy chính là cơ sở để hình thành và phát triển kinh tế bạc.
“Một xã hội hạnh phúc trong thời đại trăm tuổi là xã hội nơi người già không bị bỏ quên, mà luôn được tôn trọng, được khuyến khích tiếp tục đóng góp. Khi ấy, chúng ta không chỉ có một “xã hội siêu già hóa”, mà có một “xã hội siêu kinh nghiệm”, nơi mỗi người đều có giá trị và cơ hội được công hiến suốt đời”, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan khẳng định. Ông cũng kiến nghị cần xây dựng chiến lược quốc gia về kinh tế bạc, đưa chiến lược này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chương trình hành động về dân số, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn cho sản phẩm và dịch vụ thân thiện với người cao tuổi, đồng thời đặt mục tiêu cụ thể về tỷ trọng đóng góp của kinh tế bạc.
Để già hóa dân số trở thành động lực phát triển mới
Có thể khẳng định rằng, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng và kịp thời để chăm lo, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi. Tuy nhiên, vẫn chưa có một chủ trương, chính sách riêng và toàn diện về vấn đề người cao tuổi và kinh tế bạc.
Thế tế cho thấy, chính những chủ trương, chính sách như mở rộng diện bao phủ bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội hằng tháng đến các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh ưu tiên cho người cao tuổi… đã góp phần quan trọng giúp nhiều người cao tuổi giảm bớt gánh nặng mưu sinh, ổn định cuộc sống khi về già.
Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh chính sách về trợ cấp, chăm sóc, bảo vệ cần hướng tới chính sách mới để người cao tuổi có thể tiếp tục đóng góp phù hợp cho tăng trưởng kinh tế, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Bởi lẽ, người cao tuổi chính là những người sở hữu vốn tri thức, kinh nghiệm nghề nghiệp, vốn sống, kỹ năng quản trị và mạng lưới quan hệ xã hội đã được tích lũy theo thời gian.
Đồng thời, trong bối cảnh lực lượng lao động trẻ đang dần thu hẹp, năng suất lao động chịu sức ép và mô hình tăng trưởng cần đổi mới thì việc chưa coi người cao tuổi là một “chủ thể kinh tế” đồng nghĩa với việc nền kinh tế đang bỏ ngỏ một nguồn lực quan trọng.
Trên thực tế, một bộ phận không nhỏ người cao tuổi ở nước ta hiện vẫn tham gia lao động, sản xuất, kinh doanh, truyền tri thức, kinh ngiệm, cố vấn, sáng tạo nghệ thuật, khởi nghiệp, thậm chí là trụ cột trong các hoạt động kinh tế hộ gia đình và hoạt động xã hội. Thống kê của Hội Người cao tuổi Việt Nam cho thấy, hiện có hơn 9 triệu người cao tuổi nước ta đang tích cực tham gia lao động, sản xuất, kinh doanh, trong đó hơn 400.000 người cao tuổi đạt danh hiệu làm kinh tế giỏi,… nhiều người cao tuổi đã được Đảng, Nhà nước vinh danh là Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; Gần 1 triệu người cao tuổi đang tham gia công tác trong các tổ chức ở thôn bản, tổ dân phố; hơn 3 triệu lượt người cao tuổi tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,… Đến nay, Hội Người cao tuổi các cấp đã xây dựng được trên 9000 Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau...
Đáng chú ý, hiện vẫn thiếu những chính sách đột phá về pháp lý, chính sách khuyến khích, tiếp cận vốn, công nghệ, đào tạo lại khi người cao tuổi tham gia thị trường lao động, khởi nghiệp, sản xuất… Chính vì vậy, bên cạnh các chính sách để chăm lo tốt hơn cho người cao tuổi cũng cần chyển dịch chính sách từ thụ hưởng an sinh xã hội sang phát huy nguồn lực, từ bảo trợ sang kiến tạo môi trường để người cao tuổi tiếp tục đóng góp phù hợp với sức khỏe, năng lực và nguyện vọng. Đây chính là nền tảng để hình thành và phát triển kinh tế bạc, một hướng tiếp cận mới coi già hóa dân số không chỉ là thách thức an sinh, mà còn là động lực thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế và chính sách phát triển quốc gia trong giai đoạn tới. Cho nên, xác lập kinh tế bạc như một ngành kinh tế độc lập, chiến lược là rất cần thiết.
Thích ứng với già hóa dân số, nhiều quốc gia trên thế giới xác định người cao tuổi vừa là nhóm tiêu dùng đặc thù với nhu cầu đa dạng, vừa là một nguồn lực xã hội và kinh tế quan trọng. Chính sự thay đổi trong cách nhìn nhận này đã mở đường cho sự ra đời và phát triển của kinh tế bạc.
Việt Nam không thiếu chính sách dành cho người cao tuổi, tuy nhiên nếu chính sách vẫn dừng lại ở an sinh, kinh tế bạc khó có thể trở thành chiến lược tăng trưởng quốc gia. Người cao tuổi đã được chăm sóc, bảo vệ nhưng vẫn cần được trao cơ hội để phát huy vai trò kinh tế một cách chính danh và bền vững.
Trong cách tiếp cận chính sách, cần hướng tới chuyển từ đảm bảo mức sống tối thiểu sang kiến tạo cơ hội tham gia thị trường, từ chăm lo đơn thuần sang phát triển các ngành, lĩnh vực và thị trường gắn với nhu cầu người cao tuổi, từ các chính sách phân tán sang tư duy chiến lược mang tầm quốc gia về già hóa dân số và kinh tế bạc. Có như vậy, già hóa mới không bị nhìn như một gánh nặng mà trở thành một động lực phát triển mới trong tiến trình phát triển bền vững của đất nước.
Có nhu cầu, có mô hình nhưng kinh tế bạc chưa thành thị trường
Cùng với quá trình già hóa dân số, có thể thấy rằng nhu cầu của người cao tuổi tại Việt Nam đã và đang mở rộng nhanh chóng, vượt xa khuôn khổ chăm sóc cơ bản. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe dài hạn, phục hồi chức năng, dịch vụ chăm sóc tại nhà và cộng đồng ngày càng gia tăng; cùng với đó là nhu cầu tinh thần như đi du lịch nghỉ dưỡng, văn hóa, giáo dục, tài chính, bảo hiểm và các giải pháp công nghệ hỗ trợ sống độc lập. Đây là những lĩnh vực có tiềm năng thị trường rất lớn và có xu hướng tăng trưởng dài hạn, gắn trực tiếp với cấu trúc dân số đang thay đổi theo hướng già hóa.
Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, góp ý Dự thảo Luật Dân số, đại biểu Trương Xuân Cừ (Đoàn TP. Hà Nội) khẳng định, người cao tuổi là một nguồn lực gắn liền với sự hình thành, phát triển kinh tế bạc, đồng thời nhấn mạnh, với trí tuệ, kinh nghiệm và uy tín, người cao tuổi không chỉ là tấm gương về đạo đức và lối sống mà còn là nguồn lực quan trọng đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, chuyển đổi số, phát triển nông nghiệp xanh và các hoạt động cộng đồng. “Trong kỷ nguyên mới, yêu cầu phát triển đất nước bền vững, hiện đại, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc, đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng hợp, trong đó có nguồn lực kinh tế bạc do người cao tuổi là chủ thể và cũng là đối tượng liên quan”, đại biểu nhận định.
Đại biểu Trương Xuân Cừ cho rằng, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và y tế chuyên biệt cho người cao tuổi là lĩnh vực trọng tâm và có tiềm năng phát triển mạnh mẽ. Đại biểu ước tính, tổng nguồn lực đầu tư cho dịch vụ này đến năm 2030 đạt khoảng 566.000 tỷ đồng.
Không chỉ về nhu cầu mà trên thực tế, nhiều mô hình kinh tế bạc cũng đã xuất hiện. Đó là, các cơ sở chăm sóc người cao tuổi, dịch vụ y tế về phục hồi chức năng, đến các mô hình chăm sóc cộng đồng, Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau, hay như các sáng kiến công nghệ hỗ trợ người cao tuổi, cho đến các mô hình kinh tế có sự tham gia của người cao tuổi… Cho thấy, thị trường kinh tế bạc ở Việt Nam không phải là một khoảng trống hoàn toàn. Tuy vậy, xét về tổng thể điểm chung của các mô hình này là quy mô còn khá nhỏ, phát triển còn rời rạc, phụ thuộc ít nhiều vào nguồn lực xã hội hóa, sự tâm huyết và nhiệt tình của các tổ chức, cá nhân hơn là dựa trên một hệ sinh thái thị trường được kiến tạo bài bản, chuyên nghiệp.
![]() |
| Ông Nguyễn Hồng Lam (77 tuổi), Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Quế Lâm |
Theo ông Nguyễn Hồng Lam (77 tuổi), Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Quế Lâm, người cao tuổi là lực lượng tiên phong, gương mẫu trong phát triển kinh tế bạc ở Việt Nam. Ông Lam cho biết, hiện Hội Người cao tuổi Việt Nam đã và đang phối hợp với Hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, Tập đoàn Quế Lâm cùng cộng đồng liên kết, ứng dụng các giải pháp nông nghiệp hưu cơ, kinh tế tuần hoàn, trong 5 năm qua đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ.
Từ dẫn chứng phát triển nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn, ông Lam khẳng định, người cao tuổi có đầy đủ tố chất, năng lực và phẩm chất để đảm đương sứ mệnh là chủ thể kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới, trước hết là trong lĩnh vực nông nghiệp, đồng thời nhấn mạnh, người cao tuổi giàu kinh nghiệm, có ý chí, nghị lực, tinh thần học hỏi, đổi mới, sáng tạo vì nên nông nghiệp Việt Nam hiện đại.
Dù nhận định nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn, chuỗi liên kết giá trị Quế Lâm là tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế bạc trong kỷ nguyên mới, nhưng ông Nguyễn Hồng Lam cũng chỉ ra rằng, hiện còn thiếu các cơ chế, chính sách đặc thù để hiện thực hóa mục tiêu khuyến khích người cao tuổi tham gia phát triển nông nghiệp hưu cơ, kinh tế tuần hoàn. Do vậy, theo ông Lam, cần xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp, ban hành cơ chế chính sách khuyến khích người cao tuổi tham gia và thực thi kinh tế tuần hoàn.
Nhìn chung, thị trường kinh tế bạc ở Việt Nam là rất tiềm năng, do vậy cần sớm có chính sách để phát triển hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, việc rất quan trọng là cần sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về kinh tế bạc. Cùng với đó, đổi mới nhận thức về già hóa dân số, không còn xem người cao tuổi như “gánh nặng an sinh” mà quan tâm, tạo cơ hội để người cao tuổi phát huy vai trò phù hợp với điều kiện của mình. Mặt khác, cần quan tâm phát triển thị trường dịch vụ và sản phẩm liên quan đến người cao tuổi, tạo cơ chế để thúc đẩy việc làm phù hợp với người cao tuổi.
Đặc biệt, cần hình thành một chiến lược quốc gia về kinh tế bạc. Nếu thiếu đi chiến lược sẽ khiến mục tiêu dài hạn, lộ trình phát triển và cơ chế phân công trách nhiệm trong kiến tạo thị trường không thực sự rõ ràng.
Khoảng trống chiến lược nếu không được giải quyết sẽ kéo theo đó là những khoảng trống, bất cập trong khung pháp lý về kinh tế bạc. Khi tiêu chuẩn, trách nhiệm và ranh giới giữa các loại hình dịch vụ chưa rõ ràng, thị trường khó hình thành và phát triển bền vững.
Một điểm nghẽn khác rất dễ thấy khiến kinh tế bạc tại Việt Nam chưa thành thị trường, đó chính là cơ chế tài chính và đầu tư. Thực tế cho thấy, kinh tế bạc là lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi dài, trong khi các chính sách khuyến khích hiện nay chưa tạo được động lực đủ mạnh để doanh nghiệp tham gia ở quy mô lớn. Việc thiếu công cụ tài chính phù hợp và cơ chế hợp tác, chia sẻ rủi ro khiến lĩnh vực này khó phát triển thành một hướng đầu tư dài hạn.
Có thể khẳng định rằng, sự phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội giữ vai trò rất quan trọng trong tiến trình hình thành và phát triển kinh tế bạc. Việc kết nối và phát huy hiệu quả các nguồn lực xã hội, đặc biệt là các mô hình cộng đồng, sẽ góp phần hoàn thiện hệ sinh thái kinh tế bạc theo hướng hài hòa giữa an sinh và phát triển thị trường.
Tựu chung lại, khi không có chiến lược quốc gia, không có cơ quan đầu mối và không có khung thể chế đồng bộ, kinh tế bạc khó có thể vượt qua trạng thái tiềm năng để trở thành một cấu phần thực sự của nền kinh tế. Trong bối cảnh già hóa dân số đang diễn ra rất nhanh hiện nay tại Việt Nam, nếu không kịp thời hoàn thiện thể chế có thể làm hạn chế khả năng tận dụng các cơ hội phát triển, đồng thời đặt ra thêm những yêu cầu đối với hệ thống an sinh và nguồn lực ngân sách trong tương lai.
Từ an sinh sang phát triển: Việt Nam cần một chiến lược quốc gia về kinh tế bạc
Trong bối cảnh già hóa dân số nhanh hiện nay ở nước ta, vấn đề không còn dừng lại ở việc mở rộng các chính sách an sinh để đáp ứng nhu cầu trước mắt mà là cần sự chuyển dịch tư duy từ chăm lo sang phát triển bền vững. Kinh tế bạc nếu được tiếp cận đúng cách, không chỉ giúp giảm áp lực cho hệ thống an sinh mà còn có thể trở thành một động lực tăng trưởng mới, góp phần tái cấu trúc mô hình phát triển quốc gia trong trung và dài hạn.
Để phát triển hiệu quả kinh tế bạc, trước tiên cần có sự điều chỉnh trong cách nhìn nhận về vai trò của người cao tuổi. Thay vì tiếp cận người cao tuổi như một nhóm cần bảo trợ, nhóm phụ thuộc, chính sách cần xác định người cao tuổi là một chủ thể kinh tế với nhu cầu tiêu dùng đặc thù, khả năng tham gia lao động phù hợp và tiềm năng đóng góp về trí tuệ, tri thức, vốn sống, kinh nghiệm xã hội. Cách tiếp cận này giúp an sinh và thị trường bổ trợ cho nhau, qua đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi và phát huy hiệu quả các nguồn lực xã hội.
Trên cơ sở đó, việc xây dựng một chiến lược quốc gia về kinh tế bạc là yêu cầu có ý nghĩa rất quan trọng và mang tính then chốt. Chiến lược này cần xác định rõ mục tiêu, pham vi và lộ trình phát triển, bên cạnh đó làm rõ vai trò của các chủ thể tham gia. Theo đó, Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, định hướng và bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương; doanh nghiệp là lực lượng đầu tư, cung ứng dịch vụ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo; các tổ chức xã hội và cộng đồng đóng vai trò kết nối, hỗ trợ và lan tỏa các mô hình hiệu quả; trong khi người cao tuổi vừa là đối tượng thụ hưởng, vừa là chủ thể tham gia trực tiếp và phù hợp vào quá trình hình thành và phát triển kinh tế bạc.
Một chiến lược về kinh tế bạc hiệu quả cần được xây dựng trên những trụ cột cơ bản. Trong đó:
Một là, trụ cột người cao tuổi là trung tâm, vừa là đối tượng thụ hưởng, vừa là chủ thế tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội phù hợp.
Hai là, trụ cột thể chế hướng tới việc từng bước hoàn thiện khung pháp lý cho các dịch vụ gắn với người cao tuổi, đặc biệt là chăm sóc dài hạn và chăm sóc tại cộng đồng.
Ba là, trụ cột tài chính và bảo hiểm góp phần xây dựng cơ chế tài chính phù hợp, đảm bảo an sinh và hỗ trợ đầu tư bền vững.
Bốn là, trụ cột thị trường và đầu tư tập trung vào tạo lập môi trường thuận lợi để doanh nghiệp tham gia dài hạn, thông qua cơ chế khuyến khích phù hợp, tăng cường hợp tác công – tư và phân bổ rủi ro hợp lý.
Năm là, trụ cột cộng đồng nhấn mạnh vai trò của các mô hình cộng đồng tự giúp nhau, qua đó kết nối an sinh với thị trường và phát huy nguồn lực xã hội.
Sáu là, trụ cột công nghệ và chuyển đổi số có thể đóng vai trò như một chất xúc tác, giúp mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ và kéo dài thời gian sống độc lập của người cao tuổi.
Khi được phát triển đồng bộ, các trụ cột này sẽ tạo nên một hệ sinh thái kinh tế bạc hài hòa, nơi người cao tuổi đóng vai trò trung tâm, chủ động tham gia và được các yếu tố an sinh, thị trường, công nghệ và cộng đồng cùng hỗ trợ để phát triển bền vững.
Đặc biệt, quan trọng hơn là chiến lược quốc gia về kinh tế bạc cần được tích hợp vào các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung, thay vì tồn tại như một chương trình đơn lẻ. Khi già hóa dân số được coi là một biến số trong hoạch định phát triển, các chính sách về lao động, y tế, tài chính, đô thị, công nghệ…sẽ có điều kiện vận hành đồng bộ hơn, tạo ra một hệ sinh thái phát triển bao trùm và bền vững.
Tóm lại, già hóa dân số là xu thế không thể đảo ngược. Vấn đề đặt ra không phải là Việt Nam có già hay không mà là già hóa như thế nào và phát triển ra sao trong bối cảnh già hóa. Một chiến lược quốc gia về kinh tế bạc, nếu được xây dựng và triển khai kịp thời, sẽ góp phần biến thách thức dân số thành cơ hội phát triển, đồng thời khẳng định năng lực thích ứng và tầm nhìn dài hạn của quốc gia trong giai đoạn phát triển mới.
![]() |
| Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam Nguyễn Thanh Bình phát biểu tại Hội thảo khoa học “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới” |
Phát triển kinh tế bạc dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng
Trong bài tham luận Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới”, Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam Nguyễn Thanh Bình khẳng định, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi ngày càng được hoàn thiện, tạo nền tảng cho việc phát huy vai trò của họ trong thời kỳ mới.
Chủ tịch Nguyễn Thanh Bình cũng nhấn mạnh, phát triển kinh tế bạc ở Việt Nam cần được đặt trong tổng thể phát triển đồng bộ, hài hóa giữa văn hóa với chính trị, kinh tế và xã hội, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo và quản trị pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dẫn dắt bằng thể chế, tiêu chuẩn, quy chuẩn, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cao tuổi, đồng thời đề cao trách nhiệm giải trình của các chủ thể tham gia.
Theo Chủ tịch Nguyễn Thanh Bình, kinh tế bạc không chỉ là một lĩnh vực kinh tế mới mẻ mà còn là biểu hiện sinh động của tư duy phát triển con người toàn diện, là nội dung cụ thể hóa quan điểm “phát triển bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau” mà Đảng ta nhiều lần nhấn mạnh. Ông khẳng định: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản trị kiến tạo của Nhà nước và sự đồng thuận của toàn xã hội, phát triển kinh tế bạc sẽ góp phần quan trọng hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về người cao tuổi Việt Nam, đóng góp tích cực vào tăng trưởng bền vững, củng cố an sinh xã hội và phát triển gia trị văn hóa – con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới”.
Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam cũng cho rằng, trọng tâm cần làm là hoàn thiện khung pháp lý, chuẩn hóa chất lượng dịch vụ, phát triển hạ tầng số và nguồn nhân lực, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cao tuổi, đồng thời khuyến khích người cao tuổi tham gia thị trường lao động phù hợp năng lực.