Góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương
Kinh tế 18/12/2025 08:08
1. Kinh tế bạc đang trở thành động lực phát triển toàn cầu. Liên minh châu Âu ước tính thị trường này đạt hơn 3.700 tỷ euro mỗi năm, chiếm 25% chi tiêu tiêu dùng. Oxford Economics dự báo kinh tế bạc toàn cầu có thể đạt 15.000 tỷ USD vào năm 2050, tương đương nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Nhật Bản với gần 30% dân số trên 65 tuổi tiết kiệm hàng tỷ USD chi phí y tế nhờ IoT và hệ thống chăm sóc dài hạn tích hợp; Singapore với mô hình Smart Elderly Home giảm khoảng 25% chi phí y tế cá nhân và tăng hơn 40% khả năng tự chăm sóc của NCT. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy thành công dựa trên tư duy coi NCT là nguồn lực, thể chế linh hoạt, hệ thống chăm sóc dài hạn bền vững và ứng dụng age-tech. Những bài học này là cơ sở tham khảo quan trọng cho Việt Nam.
![]() |
| Hội thảo Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới. |
2. Kinh tế bạc, xét về lý luận, là hệ sinh thái kinh tế bao trùm các sản phẩm, dịch vụ và mô hình phát triển gắn với dân số cao tuổi, từ y tế - chăm sóc dài hạn, phục hồi chức năng, học tập suốt đời, chuyển đổi số, đô thị - nhà ở - giao thông thân thiện, đến tài chính - bảo hiểm - đầu tư, du lịch - văn hóa - tinh thần. Ba đặc trưng nổi bật của kinh tế bạc gồm: Tính đa ngành và liên thông hệ thống; thị trường tiêu dùng tăng nhanh và bền vững; vai trò kép của NCT - vừa tiêu dùng vừa đóng góp tri thức, lao động, giá trị văn hóa - xã hội. Đây là nền tảng để kinh tế bạc trở thành một cấu phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Trong kỷ nguyên mới, phát triển kinh tế bạc còn là cách tiếp cận nhân văn, đặt con người vào trung tâm, phù hợp với tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: Phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau.
3. Thời gian gần đây, hệ thống chính sách dành cho NCT ngày càng hoàn thiện, từ Luật NCT năm 2009, Nghị quyết 21-NQ/TW, Chiến lược Dân số đến 2030, Chiến lược Quốc gia về NCT đến 2035, tầm nhìn 2045, đến Đề án nhân rộng mô hình CLB LTHTGN đến năm 2035. Đây là nền tảng quan trọng để chăm sóc, phát huy vai trò NCT trong bối cảnh già hóa nhanh. Kinh tế bạc tại Việt Nam còn mới nhưng tiềm năng lớn khi cả nước có hơn 16,5 triệu NCT, trong đó trên 9 triệu người vẫn lao động; hơn 400.000 người được ghi nhận làm kinh tế giỏi. NCT đã tự nguyện đóng góp trên 25 triệu m² đất, gần 3.500 tỷ đồng và hàng chục triệu ngày công cho xây dựng nông thôn mới. Hơn 9.000 CLB LTHTGN với gần 500.000 thành viên đang góp phần giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ sinh kế… khẳng định NCT là nguồn lực kinh tế - xã hội quan trọng.
Tuy vậy, chính sách về kinh tế bạc còn phân tán; thị trường dịch vụ chăm sóc dài hạn chưa phát triển đồng bộ; tiêu chuẩn nghề nghiệp còn thiếu; doanh nghiệp age-tech ít, thiếu môi trường thử nghiệm; dữ liệu về NCT chưa liên thông; hạ tầng đô thị, giao thông, nhà ở vẫn còn bất cập. Khoảng 2/3 NCT chưa có tích lũy đáng kể; gần 70% sống chung với hai đến ba bệnh mạn tính; khoảng 40% thiếu kỹ năng số cơ bản. Những yếu tố này đòi hỏi một hệ sinh thái hỗ trợ bền vững, vừa đáp ứng nhu cầu an sinh, vừa tạo điều kiện để NCT đóng góp nhiều hơn.
Thị trường tiêu dùng của NCT đang tăng nhanh, ước chiếm 13 - 14% tổng tiêu dùng xã hội, tương đương hơn 700.000 tỷ đồng mỗi năm và có thể đạt 1,2 - 1,4 triệu tỷ đồng vào năm 2035. Nhu cầu tập trung vào y tế - chăm sóc (35 - 40%), dinh dưỡng và tiêu dùng thiết yếu (khoảng 25%), du lịch - giải trí - tinh thần (15%), tài chính - bảo hiểm (10 - 12%) và công nghệ hỗ trợ (5 - 7%).
![]() |
| NCT không chỉ là đối tượng được chăm sóc, mà còn là chủ thế tham gia phát triển nền kinh tế bạc. |
Một số mô hình thí điểm cho thấy hiệu quả rõ rệt. Mô hình “Wellness Hub + IoT” tại một số đô thị cho thấy 82% NCT sử dụng thiết bị thuận tiện; 76% gia đình yên tâm hơn nhờ cảnh báo ngã, nhắc uống thuốc; 68% nhân viên y tế cơ sở giảm áp lực xử lý cấp cứu. Phân tích chi phí - lợi ích cho thấy mô hình mang lại lợi ích ròng gấp 1,28 lần chi phí đầu tư, đủ cơ sở nhân rộng. Những kết quả này khẳng định phát triển kinh tế bạc là hướng đi đúng, có căn cứ và phù hợp điều kiện Việt Nam.
Để kinh tế bạc phát triển mạnh mẽ, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. Trước hết là vấn đề nhận thức xã hội: Vẫn còn khá phổ biến cách nhìn coi NCT chủ yếu là đối tượng cần trợ giúp, ít chú trọng coi họ là lực lượng sáng tạo, là kho báu tri thức, kinh nghiệm của quốc gia. Thứ hai là vấn đề thể chế và thị trường: Hệ thống pháp luật về dịch vụ chăm sóc dài hạn, dịch vụ xã hội, tài chính hưu trí, bảo hiểm chăm sóc dài hạn, bảo vệ người tiêu dùng cao tuổi… còn thiếu và yếu; cơ chế khuyến khích khu vực tư nhân và khu vực kinh tế xã hội tham gia lĩnh vực này chưa thật rõ nét. Thứ ba là hạn chế về nguồn nhân lực chăm sóc: Đội ngũ nhân viên chăm sóc còn vừa thiếu vừa yếu, chưa được đào tạo bài bản, chưa có hệ thống chứng chỉ nghề thống nhất, trong khi nhu cầu chăm sóc tại nhà và cộng đồng ngày càng tăng. Thứ tư là thách thức về chuyển đổi số: Nhiều NCT khó tiếp cận dịch vụ số nếu không có chương trình hỗ trợ phù hợp; cơ sở dữ liệu liên thông về NCT còn rời rạc, gây khó khăn cho quy hoạch và quản lý.
4. Dự báo trong 20 năm tới, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn già hóa sâu với hơn 25% dân số trên 60 tuổi; thị trường kinh tế bạc có thể đạt quy mô 25 - 30% GDP nếu được đầu tư đúng mức và có chính sách hỗ trợ tương thích. Nhu cầu chăm sóc dài hạn sẽ tăng gấp đôi vào năm 2045; nhu cầu nhân lực chăm sóc có thể vượt 500.000 người; thị trường age-tech sẽ bùng nổ với các ứng dụng theo dõi sức khỏe từ xa, trí tuệ nhân tạo, thiết bị hỗ trợ vận động, nhà ở thông minh và nền tảng dịch vụ cá nhân hóa. Các dự báo cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm dịch vụ chăm sóc và công nghệ tuổi già trong khu vực nếu đi trước một bước, có chiến lược rõ ràng, lộ trình cụ thể và sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị.
5. Trong bối cảnh đó, cần triển khai một số nhóm giải pháp trọng tâm để phát triển kinh tế bạc gắn với tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.
Thứ nhất, xây dựng và ban hành Chiến lược Quốc gia về kinh tế bạc đến năm 2045 như một cấu phần trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; xác định rõ mục tiêu về tỷ trọng đóng góp của kinh tế bạc vào GDP, các chỉ tiêu dịch vụ chăm sóc dài hạn, chỉ tiêu bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm chăm sóc dài hạn, và chỉ tiêu về tiếp cận dịch vụ số của NCT.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về NCT theo hướng tích hợp, sửa đổi Luật NCT, bổ sung các quy định về thị trường dịch vụ chăm sóc, dịch vụ xã hội, nghề chăm sóc, nhân lực chăm sóc, quỹ bảo hiểm chăm sóc dài hạn; thúc đẩy mô hình nghỉ hưu linh hoạt và tái tuyển dụng nhóm 55+.
Thứ ba, phát triển hệ sinh thái dịch vụ chăm sóc dài hạn tại nhà và cộng đồng, mở rộng mạng lưới trung tâm chăm sóc, chuẩn hóa quy trình chăm sóc, nâng cao năng lực quản trị của chính quyền địa phương; khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ chức xã hội tham gia cung cấp dịch vụ chất lượng cao.
Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh tế bạc, phát triển nền tảng sức khỏe số và hồ sơ sức khỏe điện tử, ứng dụng IoT, AI trong chăm sóc tại nhà, phổ cập kỹ năng số cho NCT, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về NCT liên thông giữa các ngành, bảo đảm an toàn, bảo mật dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư.
Thứ năm, phát triển hạ tầng và không gian sống thân thiện với NCT: Nhà ở không rào cản, giao thông an toàn, không gian xanh, khu dân cư tích hợp dịch vụ y tế, văn hóa, tinh thần; thúc đẩy mô hình đô thị 15 phút và thiết kế bao trùm để mọi lứa tuổi, đặc biệt là NCT, đều có thể tiếp cận dịch vụ dễ dàng.
Thứ sáu, tăng cường vai trò của Hội NCT Việt Nam trong giám sát, phản biện chính sách, phát triển cộng đồng và nhân rộng mô hình CLB LTHTGN - một mô hình đã chứng minh tính hiệu quả và bền vững, góp phần giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, tạo sinh kế và tăng cường gắn kết xã hội.
Cuối cùng, cần huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội, thúc đẩy hợp tác công - tư, thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia thị trường kinh tế bạc, đồng thời tăng cường truyền thông thay đổi nhận thức xã hội, xây dựng hình ảnh NCT năng động, sáng tạo, sống khỏe, sống có ích, sống hạnh phúc.
Kinh tế bạc không chỉ là một lĩnh vực kinh tế mới mà còn là chiến lược phát triển mang đậm giá trị nhân văn, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”. Phát triển kinh tế bạc là cách để Việt Nam chuyển hóa thách thức già hóa dân số thành cơ hội phát triển mới; là con đường để phát huy vai trò, trí tuệ và sức mạnh của gần 17 triệu NCT hôm nay và hàng chục triệu NCT trong tương lai. Đây không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà là trách nhiệm của toàn xã hội, gia đình, cộng đồng, doanh nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó Hội NCT Việt Nam giữ vai trò nòng cốt. Một Việt Nam phồn vinh trong thế kỷ XXI sẽ là một Việt Nam biết trân trọng, chăm sóc và phát huy giá trị của thế hệ “tóc bạc - lòng xanh”, biến mùa thu vàng của cuộc đời thành mùa vàng của kinh tế - xã hội quốc gia.