Kỉ vật cuối đời
Xã hội 27/07/2022 09:14
Dù năm tháng đã đi xa, nhưng mỗi lần đọc lại lá thư ấy, con tim lại nhói đau, dường như hình ảnh, lời nói của liệt sĩ vẫn văng vẳng, hiện về trong tâm trí của những người thân.
Khi đọc những dòng chữ trong lá thư đã bị hoen ố màu thời gian, nét chữ tuy có mờ nhưng chúng tôi không thể kìm nén được cảm xúc. Lá thư của liệt sĩ Duân tuy chưa đầy 2 mặt giấy nhưng đã phản ánh được cuộc hành trình hơn 100 ngày mà liệt sĩ gọi là “vạn lí Trường Sơn đi cứu nước”. Bức tâm thư với những trang viết chan chứa lòng yêu thương của người chiến sĩ gửi đến bố mẹ thân yêu, người vợ dịu hiền, các con và ý thức trách nhiệm với Tổ quốc.
Di ảnh liệt sĩ Phạm Tùng Duân |
Chia sẻ với tôi, bà Phạm Thị Vân, con út của liệt sĩ Phạm Tùng Duân cho biết: Bố Duân sinh năm 1934, ông đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ, ông trở về quê hương, lao động sản xuất, lập gia đình với mẹ tôi (cụ Trần Thị Hòe) và sinh được 3 người con lần lượt đặt tên là Trung, The, Vân. Vốn là người nhiệt tình, tích cực tham gia các phong trào tại địa phương nên ông được cử làm Bí thư Đoàn thanh niên xã Ái Quốc (nay là xã Tây Phong và xã Tây Tiến). Năm 1965, theo tiếng gọi của miền Nam thân thương, bố tôi tái ngũ lên đường chiến đấu tại Sư đoàn 3, hay còn gọi là Sư đoàn Sao Vàng. Lá thư bố tôi viết gửi về gia đình ngày 15/5/1968. Đó là lá thư được ông viết sau khi đã đến nơi chiến đấu mới. Và cũng phải sau gần 5 tháng (ngày 10/10/1968), gia đình mới nhận được thư:
“Hơn 100 ngày cuộc hành trình vạn lí Trường Sơn con tới địa điểm, sức khỏe tất nhiên bị ảnh hưởng nhưng vẫn đảm nhiệm chiến đấu tốt. Ở ngoài Bắc thầy mẹ, cô chú thím, em Hòe yên tâm sản xuất tốt, còn sinh hoạt nếu có gặp khó khăn cũng không nên kêu ca. Con cảm thấy cuộc sống như những ngày con ở ngoài ấy thì thần tiên lắm đấy. Còn tình hình ở trong này Nhân dân nhiệt tình giúp đỡ cách mạng lắm. Còn tất nhiên chiến đấu phải đổ máu, phải hi sinh, vì độc lập - thì gia đình ta và con cũng sẵn sàng”. Những dòng thư đầy tâm huyết ấy đã phần nào tái hiện được chiến trường bom đạn khốc liệt. Nhưng với tình yêu Tổ quốc, người chiến sĩ sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Ông vẫn không quên nhắn nhủ: “Đâu có phải dễ mà được hi sinh phải không thầy mẹ và em Hòe. Miền Nam rất nhiều chuyện muốn tâm sự với gia đình, chờ bao giờ hoàn thành nhiệm vụ trở về ngồi ăn cơm tối với gia đình ta sẽ vui kể chuyện”. Lời nói đó như là liều thuốc an thần đối với gia đình khi ngày ngày vẫn ngóng chờ tin phương xa. Họ chờ mong, chờ mong ngày người chiến sĩ ấy chở về để nghe câu chuyện chiến trường miền Nam, nghe cuộc sống và tình cảm đồng đội của người lính trong mưa bom bão đạn.
Bút tích của các liệt sĩ qua những lá thư thời chiến. |
Ngày 10/10/1968, khi nhận được lá thư trên, gia đình liệt sĩ Duân rất vui mừng, phấn khởi. Nhưng có ai ngờ rằng, đó cũng là kỉ vật cuối cùng mà liệt sĩ gửi về. Bởi liệt sĩ Duân đã hi sinh trước đó gần 1 tháng, ngày 13/9/1968. Do chiến tranh, mãi đến sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, gia đình mới nhận được tin báo tử của liệt sĩ Duân. Bằng ấy năm gia đình vẫn mòn mỏi ngóng chờ ngày đón người con, người chồng, người cha chở về sum họp, cùng ngồi ăn cơm tối và kể câu chuyện về miền Nam như lời người chiến sĩ ấy đã từng hứa. Tất cả đã trở thành quá khứ.
Liệt sĩ Duân ra đi ở tuổi 34, để lại bố mẹ già, người vợ thảo hiền cùng 3 người con thơ dại. Cuộc sống sau ngày đất nước giải phóng với muôn vàn khó khăn, nhưng với lời hứa trước di ảnh của liệt sĩ Duân, các thành viên trong gia đình cùng động viên nhau vượt qua nỗi đau, vươn lên trong cuộc sống, góp sức người, sức của xây dựng quê hương, xứng đáng với sự hi sinh của ông và đồng đội.
Theo chia sẻ của bà Vân, hài cốt ông được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Bình Định an táng. Sau nhiều năm tìm kiếm, đến năm 2011, được sự giúp đỡ của các ngành, địa phương và đơn vị, gia đình đã tìm và đưa được hài cốt của liệt sĩ Duân về yên nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ Trung tâm huyện. Vào ngày lễ, Tết, các thành viên trong gia đình lại đến Nghĩa trang để thăm phần mộ và thắp nén hương thơm cho người chồng, người cha và đồng đội của ông.