Có một con kênh mang tên bà
Xã hội 08/02/2023 09:47
Dòng Cổ Chiên mênh mang chảy giữa 2 tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre mà dồn sóng sông Tiền ra biển Đông, đến chỗ nhận thêm nước của nhánh sông Mang Thít chảy giữa 2 huyện Vũng Liêm và Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, nổi lên giữa dòng một cù lao như hình con thoi. Cù lao này có tên gọi là cù lao Dài hoặc là cù lao Năm Thôn.
Thôn Quới Thiện nằm ở mạn Bắc cù lao Năm Thôn. Thời Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh được phái vào mở đất Nam Bộ, gia đình ông Châu Vĩnh Huy và bà Đỗ Thị Toán cùng tìm đến Quới Thiện định cư, sinh sống. Đến năm 1766, họ sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Châu Thị Vĩnh Tế.
Trưởng nữ của gia đình họ Châu sinh ra và lớn lên vào thời đất mới được mở. Nhờ “đảm đang vốn sẵn tính trời”, vừa xinh đẹp, nết na hiền thảo; vừa tảo tần giỏi chuyện làm ăn nên cô sớm nổi tiếng khắp vùng.
Kênh Vĩnh Tế ở Châu Đốc, tỉnh An Giang ngày nay. |
Bấy giờ, chàng trai Nguyễn Văn Thoại hơn cô Vĩnh Tế 5 tuổi, người gốc Quảng Nam, cha mất sớm, gặp thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, Tây Sơn khởi dấy nên theo mẹ đưa 2 em chạy loạn vào Nam. Họ tìm đến cù lao Năm Thôn định cư, sinh sống.
Biết nhau từ đó nhưng vì Nguyễn Văn Thoại theo phò chúa Nguyễn Ánh từ lúc mới 16 tuổi, chinh chiến, lưu lạc khắp nơi nên mãi đến năm 1788, khi chàng 27 tuổi, còn nàng 22 tuổi mới nên vợ nên chồng. Tuy nhiên, sau khi kết hôn, do Nguyễn Văn Thoại vẫn tháp tùng và tòng chinh cùng chúa Nguyễn Ánh. Ngay cả lúc chúa Nguyễn nghiệp lớn đã thành, lên ngôi hoàng đế Gia Long vào năm 1802, rồi 15 năm sau đó, Nguyễn Văn Thoại vẫn phải nhận lệnh vua đi làm quan “trấn thủ” hết Lạng Sơn (ngoài Bắc) lại tới Định Tường (trong Nam), sang cả Cao Miên làm quan “bảo hộ”. Vì thế, vợ chồng họ chẳng mấy khi được chung sống với nhau. Khi thành phu nhân của quan lớn, bà Tế vừa thay chồng “gánh vác giang sơn nhà chồng”, vừa làm việc nhà bên ngoại, cũng như cả ở quê hương cù lao Năm Thôn của họ Châu và họ Nguyễn.
Chỉ từ năm 1817, khi Nguyễn Văn Thoại, được ban tước Thoại Ngọc Hầu, nhận lệnh vua làm quan Trấn thủ Vĩnh Thanh (gồm một miền đất lớn: Vĩnh Long, Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên và một phần Kiên Giang ngày nay), ông bà mới có thời gian dài sống bên nhau ở Châu Đốc. Lúc ấy, họ đã vào độ tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, cũng là thời gian mà sự nghiệp kinh bang tế thế của ông và công cuộc giúp chồng, giúp dân của bà - đào kênh, để kinh tế, xã hội trong vùng phát triển.
Một năm sau khi nhận chức Trấn thủ Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thoại đã cho đào con kênh dài hơn 30 cây số nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với nguồn Giá Khê (Rạch Giá). Đến nỗi, lần đầu tiên trong lịch sử, vua Gia Long đã phải ban lệnh: Lấy ngay chữ Thoại để đặt tên cho dòng kênh mới đào là “Thoại Hà” và ngọn núi Sập ở đầu kênh là “Thoại Sơn”. Song, so với kênh Vĩnh Tế, cũng do Nguyễn Văn Thoại chủ trì việc đào sau đó, thì Thoại Hà còn phải ngả mũ kính chào!
Sách “Gia Định thành thông chí” có đoạn ghi về việc đào dòng kênh này: “Kênh Vĩnh Tế khởi đầu từ phía Tây đồn Châu Đốc. Năm Kỷ Mão (1819) niên hiệu Gia Long thứ 18, đo thẳng từ hào phía sau đồn Châu Đốc lên phía Tây, qua bưng bùn Ca Âm đến Kỳ Thi, tục gọi là Cây Kè, dài 44.412 tầm, thành ra 205 dặm rưỡi, mỗi dặm bằng 1.700 thước ta... Ngày 15 tháng Chạp khởi công... Cân nhắc chỗ đào khó dễ, nhân lực nặng nhẹ, bắt đầu từ miệng hào đến láng bùn đất khô cứng, có 7.575 tầm là phần việc của người Việt, còn đất bùn nhão có 18.704 tầm là phần việc của dân Cao Miên. Đào bề ngang 15 tầm, sâu 6 thước ta...”.
Từ đoạn văn cổ trên, những tính toán và số liệu hiện đại cho biết thêm về kênh Vĩnh Tế như sau: Tổng chiều dài 87km, rộng 30m, sâu 2,55m. Số dân binh huy động: Hơn 90.000 người; tổng số ngày công: 3.463.500; khối lượng đất đào: 2.845.035m3. Những giai đoạn cụ thể của việc đào kênh cũng được tính toán trong thời gian 5 năm (1819-1824), chia thành các đợt, như sau:
Đợt 1: Khởi công vào tháng 12 âm lịch năm 1819, đào đến tháng 3 âm lịch năm 1820 thì tạm dừng (do vua Gia Long mất, vua Minh Mạng mới lên ngôi; do loạn Sãi Kế và dịch bệnh hoành hành). Huy động nhân lực đào kênh đợt này: 5.000 dân phu người Việt, 5.000 dân phu Cao Miên và 500 binh đồn Uy Viễn (Trà Ôn).
Đợt 2: Tiếp tục đào từ tháng 2 đến tháng 4 âm lịch năm 1823. Nhân lực huy động: 39.000 dân và quân người Việt (lấy ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, Định Tường), 16.000 quân và dân Cao Miên - tổng cộng hơn 55.000 người, chia làm 3 phiên hoạt động.
Đợt 3: Đào từ tháng 2 đến tháng 5 âm lịch năm 1824. Số lượng quân và dân, cả Việt lẫn Cao Miên, được huy động đào kênh đợt cuối này là 25.000 người.
Ba đợt đào kênh như thế phải vượt qua muôn vàn gian khó. Đất thì mênh mông, hoang vắng, bùn lầy và mưa nắng rất vất vả, thêm cả nạn thú dữ tấn công và dịch bệnh hoành hành; kĩ thuật đào kênh thô sơ, tai nạn lao động xảy ra như cơm bữa. Việc tiếp tế lương thực, nấu nướng nuôi quân cũng đầy trở ngại.
Bà Châu Thị Vĩnh Tế xuất hiện như một cứu tinh trong hoàn cảnh này. Sát cánh bên chồng chỉ huy việc đào kênh và khi chồng phải đi xa thực hiện công vụ, bà thay ông quán xuyến tất cả mọi việc. Vốn là người tần tảo, thảo hiền nên hầu như toàn bộ việc nuôi dưỡng và cứu chữa dân phu đều do bà gánh vác, đảm trách.
Công đức của bà Vĩnh Tế lớn lao như vậy nên trong dân gian có câu ca ngợi: “Nước Nam trai sắc gái tài/ Gương bà Châu Thị lưu đời ngàn năm”.
Đến khi con kênh hoàn thành, vua Minh Mạng vừa mừng vừa cảm kích, ra lệnh: Lấy tên vợ (Vĩnh Tế) của người chỉ huy đào kênh mà đặt tên cho công trình, cả ngọn núi Sam ở đầu kênh nữa!
Bà Châu Thị Vĩnh Tế mất năm 1826. Mộ của bà được ông dọn chỗ sẵn, ở bên cạnh mộ chồng trong khu Sơn Lăng dưới chân núi Sam.
Bao năm qua, vùng đất Nam Bộ vẫn lưu truyền những câu chuyện kì thú về tên tuổi và các sự tích liên quan đến Châu Thị Vĩnh Tế. Kênh Vĩnh Tế, kì công và kì quan, hiện vẫn là con kênh chiến lược về mọi phương diện: Kinh tế, quốc phòng, xã hội... mang tên của người phụ nữ khả kính ở Châu Đốc - Vĩnh Long.