Vụ khiếu nại của cụ Phan Văn Hiền ở xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai: Nhiều dấu hiệu giải quyết khiếu nại trái luật
Pháp luật - Bạn đọc 13/11/2019 10:37
Nội dung tranh chấp
Năm 1943, cha, mẹ của cụ Hiền khai khẩn vùng đất có diện tích 68.000m2 tại ấp Vũng Gấm, xã Phước An, huyện Nhơn Trạch. Năm 1975, cụ Hiền được giao quản lí, canh tác, sử dụng và ở ổn định diện tích đất trên cho đến nay.
Ngày 9/4/1999, cụ Hiền được UBND huyện Nhơn Trạch cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số L 064108; diện tích đất được công nhận là: 39.080m2, trong đó có 13.754m2 là đất ao thuộc các thửa 27, 28, 29, tờ bản đồ 12, xã Phước An, huyện Nhơn Trạch.
Ngày 13/3/2002, Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch ban hành Quyết định số 1402/QĐ.CT.UBH thu hồi diện tích; 13.754m2 đất ao trên "lí do là xã có sai sót khi đã trình lên UBND huyện cấp GCNQSDĐ số L 064108 vào ngày 9/4/1999 cho ông Phan Văn Hiền".
Không đồng ý, cụ Hiền khiếu nại Quyết định số 1402/QĐ.CT.UBH. Ngày 29/7/2002, Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch ban hành Quyết định số 3828/QĐ-CT-UBH, giải quyết khiếu nại cho rằng, việc thu hồi đất của cụ Hiền là đúng pháp luật và gia đình cụ Hiền không có chứng cứ chứng minh đất nêu trên là do cha mẹ để lại từ năm 1943.
Cụ Hiền khiếu nại lên Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai để giải quyết lần 2 theo quy định. Tuy nhiên, trong khi UBND tỉnh Đồng Nai giải quyết khiếu nại thì đất của cụ Hiền bị chính quyền huyện Nhơn Trạch thu hồi, khiến cụ Hiền rơi vào trạng thái hỗn loạn tinh thần và bị tai biến. Do vậy, toàn bộ giấy tờ đất bị thất lạc, không thể cung cấp để chứng minh đất nêu trên là do cha mẹ ông bà của cụ Hiền để lại từ năm 1943 và cụ Hiền sử dụng từ năm 1975 đến nay là đúng sự thật và có cơ sở để xem xét công nhận chủ quyền theo quy định của pháp luật.
Ông Phan Văn Kiệt trên phần đất tranh chấp. |
Giải quyết khiếu nại có nhiều bất cập
Ngày 25/02/2003, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số 536/QĐ.CT.UBT, giải quyết khiếu nại lần 2 đối với Quyết định số 3828/QĐ-CT-UBH, ngày 29/7/2002 của Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch. Theo đó, Quyết định số 536 có nội dung căn cứ để Ban hành quyết định giải quyết khiếu nại: “Ông Phan Văn Hiền khiếu nại cho rằng 13.754m2 đất ao nêu trên nằm trong diện tích 6 ha đất do cha mẹ ông để lại là không đúng sự thật và không có giấy tờ chứng minh, do đó đơn khiếu nại của ông Hiền không có cơ sở để xem xét. Quyết định số 3828/QĐ-CT-UBH, ngày 29/7/2002 của Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch giải quyết khiếu nại của ông Phan Văn Hiền là đúng pháp luật”.
Tuy nhiên, gia đình cụ Hiền cung cấp chứng cứ pháp lí để chứng minh diện tích: 13.754m2 đất ao nêu trên nằm trong diện tích 6.8 ha đất do cha mẹ sử dụng từ năm 1943 và để lại cho gia đình cụ Hiền quản lí sử dụng từ năm 1975 cho đến nay ở ổn định trên đất là đúng sự thật.
Những tài liệu chứng cứ sau đây để chứng minh việc cha mẹ cụ Hiền để lại cho 6.08ha đất theo GCNQSDĐ số L 064108, UBND huyện Nhơn Trạch cấp ngày 9/4/1999, diện tích đất được công nhận là: 39.080m2, trong đó có diện tích: 13.754m2 là đất ao thuộc các thửa 27, 28, 29, Tờ bản đồ 12, xã Phước An, huyện Nhơn Trạch là đúng sự thật, như sau:
Ngày 21/9/1992, UBND xã Phước An cấp sổ Kê khai diện tích và thu nộp thuế nông nghiệp. Tổng diện tích đất là 68.000m2.
Ngày 30/3/1995, tại Biên bản xác minh và Biên bản đo vẽ đất có nguồn gốc của cụ Huỳnh Văn Sao khai hoang vào năm 1943. Cụ Sao sử dụng đất đến năm 1975 thì giao lại cho cụ Hiền quản lí, sử dụng.
Về việc, UBND huyện Nhơn Trạch cấp GCNQSDĐ số L 064108, cấp ngày 9/4/1999 cho cụ Hiền là đúng quy định tại Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998; Quyết định số 499/QĐ-ĐC ngày 27/7/1995 của Tổng cục Địa chính. Điều này, cụ Hiền chứng minh bằng các tài liệu khi các cấp chính quyền huyện Nhơn Trạch lập, xác nhận cấp GCNQSDĐ như sau: “Ngày 20/3/1995, UBND xã Phước An xác nhận Tờ tường trình nguồn gốc đất”; “Ngày 26/3/1995, UBND xã Phước An xác nhận Quyền sử dụng đất”; “Ngày 30/3/1995, Tại Biên bản xác minh và Biên bản đo vẽ đất có nguồn gốc của ông Huỳnh Văn Sao khai hoang vào năm 1943, ông Sao sử dụng đất đến năm 1975 rồi giao lại cho ông Hiền quản lí khai thác sử dụng và ở trên đất ổn định”.
Như vậy, ngày 21/9/1992, đất đai của gia đình cụ Hiền đã được UBND xã Phước An cấp sổ Kê khai diện tích và thu nộp thuế nông nghiệp với tổng diện tích đất 68.000m2. Ngày 30/3/1995, tại Biên bản xác minh và Biên bản đo vẽ đất có nguồn gốc của cụ Huỳnh Văn Sao khai hoang vào năm 1943, sử dụng đất đến năm 1975 thì giao lại cho cụ Hiền quản lí sử dụng canh tác và ở ổn định trên đất cho đến nay. Những loại giấy tờ này là các loại giấy tờ đất đai được quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 (nay là Điều 100 Luật Đất đai năm 2013).
Tuy nhiên, tại thời điểm (ngày 29/7/2002), Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch ra Quyết định số 3828/QĐ-CT-UBH giải quyết khiếu nại và ngày 25/2/2003, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số 536/QĐ.CT.UBT giải quyết khiếu nại lần 2, thì gia đình cụ Hiền chưa cung cấp được các chứng cứ nêu trên theo yêu cầu của Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai lúc bấy giờ.
Mặt khác, khi Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai giải quyết khiếu nại của cụ Hiền, không tuân thủ quy định pháp luật về trình tự thủ tục thụ lí giải quyết khiếu nại theo chính sách pháp luật đất đai; nên mới có nội dung cho rằng: “Ông Phan Văn Hiền khiếu nại cho rằng 13.754m2 đất ao nêu trên nằm trong diện tích 6ha đất do cha mẹ ông để lại là không đúng sự thật và không có giấy tờ chứng minh, do đó đơn khiếu nại của ông Hiền không có cơ sở để xem xét và công nhận Quyết định số 3828/QĐ-CT-UBH ngày 29/7/2002 của Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch giải quyết khiếu nại của ông Phan Văn Hiền là đúng pháp luật”.
Quyết định số 536/QĐ.CT.UBT có dấu hiệu vi phạm cụ thể như sau; "Khi được Chủ tịch UBND giao thụ lí đơn theo thẩm quyền, Thủ trưởng cơ quan được giao thụ lí đơn phải ra quyết định thụ lí, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đơn vào sổ. Cán bộ thụ lí có trách nhiệm thu thập chứng cứ và thẩm tra, xác minh làm rõ nguồn gốc đất, nhà có liên quan đến việc khiếu nại, tranh chấp; quá trình quản lí sử dụng; quá trình hoà giải và giải quyết ở cơ sở; đồng thời lập báo cáo kết luận thẩm tra, xác minh trình trực tiếp với Thủ trưởng cấp mình, để Thủ trưởng xem xét báo cáo Chủ tịch UBND”.
Từ việc không thực hiện các quy trình quy định trên cho nên dẫn đến việc cơ quan ban hành quyết định trái pháp luật, do không thanh tra xác minh rõ về “Nguồn gốc đất do cha mẹ ông bà của cụ Hiền khai hoang vào năm 1943, giao lại cho cụ Hiền quản lí sử dụng và ở trên đất từ năm 1975, vào năm 1992, được cấp sổ và vào năm 1999, được Hội đồng xét cấp GCNQSDĐ theo luật đất đai”, để từ đó có căn cứ theo quy định pháp luật là loại đất có giấy tờ do cơ quan cấp cho người sử dụng đất. Căn cứ vào Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 (nay là Điều 100 Luật Đất đai năm 2013) để giải quyết đúng quy định pháp luật.
Căn cứ các tình tiết pháp lí được viện dẫn nêu trên cho thấy, ngày 29/7/2002, Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch ban hành Quyết định số 1402/QĐ.CT.UBH thu hồi diện tích 13.754m2 là đất ao nói trên; ban hành Quyết định thu hồi GCNQSDĐ số L 064108, diện tích đất được công nhận là: 39.080m2, trong đó có diện tích 13.754m2 là đất ao thuộc các thửa 27, 28, 29, Tờ bản đồ 12, xã Phước An; do UBND huyện Nhơn Trạch cấp ngày 9/4/1999 cho ông Hiền; ban hành Quyết định số 3828/QĐ-CT-UBH, ngày 29/7/2002 của Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch giải quyết khiếu nại; ban hành Quyết định số 536/QĐ QĐ.CT.UBT, ngày 25/2/2003 của Chủ tịch UBND Đồng Nai đều hoàn toàn là các quyết định có dấu hiệu trái pháp luật cần được xem xét, hủy bỏ, vì không có giá trị pháp lí”. (Còn nữa)