Bình Thuận: Đề án 938 và Đề án 939 đã góp phần thúc đẩy bình đẳng giới, phát huy tiềm năng của phụ nữ.

Nhịp sống 28/04/2025 07:56
![]() |
Trước hết, xin kể một chuyện với bao trăn trở: Cho đến những năm cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, khi cả nhà quá thiếu chất đạm, tôi thường đến các hợp tác xã mua bán viết bài, ngoài nhiệm vụ tuyên truyền “tính ưu việt” của lối làm ăn tập thể (tất nhiên lương tâm không cho phép tôi “nói quá”) còn để được… ưu tiên mua cá tạp, tức nhiều loại cá biến chất lượng thấp trộn chung. Có lúc, bóng tuýp trong căn hộ tập thể bị hỏng, không thể mua ở “chợ trời”, tôi lại đi viết về một cửa hàng bách hóa quốc doanh nào đó cũng để được… ưu tiên có ánh sáng đèn điện.
Chuyện ấy đáng buồn thì rõ rồi, còn trăn trở là nghĩ đến nguyên nhân sự thiếu thốn bởi cái gì cũng phân phối theo kế hoạch kéo dài sau không ít năm chiến tranh đã kết thúc, nhất là thiếu lương thực, thực phẩm và hàng hóa thiết yếu giữa một vùng châu thổ đất đai phì nhiêu, nông dân đã bắt đầu áp dụng khoa học, kỹ thuật vào canh tác cho năng suất, chất lượng khá cao, trong khi vào thời điểm đầu 1975, Sài Gòn đã có trên 1.700 nhà máy, xí nghiệp từ 50 đến trên 1.000 lao động, công nghiệp chế biến, kim khí, thực phẩm, đồ uống, hóa chất đã phát triển, lại có nền thương nghiệp không thua kém Singapore, Thái Lan.
Trước tình trạng lạm phát có lúc lên tới 740%, đời sống nhân dân sa sút, khủng hoảng kinh tế kéo theo khủng hoảng văn hóa, xã hội xuất hiện, những người dân bình thường vừa góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh giữ nước như chúng tôi trăn trở một thì các vị lãnh đạo trăn trở mười. Đảng bộ và chinh quyền TP. Hồ Chí Minh, đứng đầu là đồng chí Võ Văn Kiệt, đồng chí Nguyễn Văn Linh không thể để dân thiếu thực phẩm, thiếu hàng tiêu dùng kéo dài, không thể để các nhà máy, xí nghiệp luôn thiếu nguyên liệu sản xuất nên đã dũng cảm vượt qua cửa ải của cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, đã cho thành lập tổ thu mua lương thực, rồi thành lập công ty lương thực xuống Đồng bằng sông Cửu Long, vượt hàng rào "ngăn sông cấm chợ" để mua gạo theo giá thỏa thuận, “tự cứu mình trước khi trời cứu” về bán cho dân thành phố theo giá thị trường; cho phép phân phối các kho dự trữ, đưa vật tư tồn đọng trang trải cho các nhà máy, xí nghiệp; cho phép các cơ sở sản xuất mở rộng quyền chủ động khai thác nguyên liệu, vật liệu thay vì chờ phân phối; cho phép xây dựng kế hoạch liên kết, hợp tác sản xuất, xuất nhập khẩu với các tỉnh thay vì chỉ làm theo kế hoạch cấp có thẩm quyền định sẵn. Lãnh đạo thành phố cho lập Công ty Xuất nhập khẩu trực tiếp (Direximco), Công ty Xuất nhập khẩu Chợ Lớn (Cholimex), huy động vốn mua hàng xuất khẩu, lấy ngoại tệ nhập nguyên liệu, vật tư để sản xuất. Lãnh đạo thành phố cho phép được thực hiện chính sách “ba lợi ích” (Nhà nước, tập thể, cá nhân) khi các cơ quan, đơn vị “làm thêm” ngoài kế hoạch; đặc biệt đề ra chủ trường xây dựng lương khoán, trả lương theo sản phẩm… Nhờ đó, nhiều điển hình làm ăn theo "cơ chế thành phố" xuất hiện như Công ty Bột giặt Miền Nam, Dệt Phong Phú, Dệt Thành Công, Bia Sài Gòn... Chính quyền cũng "đỡ đầu" cho những tìm tòi, sáng kiến vượt cơ chế cho phép, kêu gọi tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, từng bước thoát ra khỏi cách suy nghĩ, làm ăn kiểu cũ. Nhờ vậy, kinh tế TP. Hồ chí Minh bắt đầu tăng trưởng dù trong tình thế bị "trói tay".
Lại xin kể thêm một chuyện có vẽ “rất nhỏ” nhưng đem lại niềm vui lớn: Ông Chín Cần - Bí thư Tỉnh uỷ Long An từ 1977 đến năm 1984, là nhà lãnh đạo đầu tiên chủ trương bù giá vào lương “khá vui”, bởi nó được bắt đầu với cục xà bông: Tiền chi mua xà bông theo tiêu chuẩn bao cấp được tính lại, bù đủ vào lương, còn xà bông được bán tự do, không phân phối nữa, như vậy tiền lương cán bộ, công nhân viên cũng tăng tương ứng. “Thành công” từ “cục xà bông” giúp Long An chuyển sang một số mặt hàng khác, như thịt, rồi gạo..., tức tất cả hiện vật bao cấp đều được quy ra tiền theo giá thị trường (chẳng hạn thịt 3 đồng giá bao cấp bằng 300 đồng theo giá thị trường) được đưa vào lương.
Những kết quả thử nghiệm đổi mới mà sau này gọi là “xé rào”, là “bung ra” tại TP. Hồ Chí Minh cùng với chủ trương “bù giá vào lương” của Tỉnh uỷ Long An, và trước đó rất lâu là quyết định táo bạo của Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc khi nhận ra tình trạng “rong công, phóng điểm” của hợp tác xã nông nghiệp, đã cho phép “khoán hộ”, “khoán chui”, tạo ra sự đột phá về năng suất, sản lượng cây lương thực là tiền đề quan trọng để năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Từ đó, một số chính sách đổi mới đã đi vào cuộc sống. Nhà nước công nhận nền kinh tế đa thành phần, có doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp tư nhân và cả doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều người có ý chí đã lập công ty tư nhân. TP. Hồ Chí Minh là nơi đầu tiên xuất hiện những doanh nhân “đời đầu” dám đương đầu với vô vàn khó khăn, nhất là về cơ chế quản lý và luật pháp chưa rõ ràng, để tự làm giàu cho mình và cho xã hội. Từ đó, nền kinh tế của TP. Hồ Chí Minh bắt đầu khởi sắc, tỷ trọng sản xuất công nghiệp chiếm hơn 30% tổng sản lượng cả nước.
Khi đất nước đổi mới nền kinh tế và mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, TP. Hồ Chí Minh là đơn vị khởi xướng và đi đầu trong các phong trào cùng cả nước, vì cả nước, chung tay vì người nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, xã hội hóa những ngành nghề mà luật pháp không cấm, nhất là xã hội hóa ngành giáo dục, tạo sức lan tỏa và sự hưởng ứng mạnh mẽ trên cả nước; là thành phố năng động, sáng tạo, nghĩa tình, đóng vai trò động lực trong sự nghiệp từ bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước trở thành trung tâm về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của cả nước và khu vực Đông Nam Á.
Nhìn lại chặng đường 50 năm hình thành và phát triển kinh tế, xã hội của TP. Hồ Chí Minh, ai cũng thấy rằng sự đoàn kết, chủ động, sáng tạo và đột phá của địa phương này đã trở thành truyền thống trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Bộ Chính trị từng có 4 nghị quyết riêng về TP. Hồ Chí Minh, Quốc hội đã ban hành hai nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.Hồ Chí Minh, đã lan tỏa đến nhiều địa phương, cho thấy, Trung ương luôn nắm bắt từ thực tiễn sinh động tại TP. Hồ Chí Minh và đó cũng là tiền đề để ban hành cơ chế, chính sách mới cho cả nước.
Nhờ thế, từ năm 1992 đến 2011, tăng trưởng kinh tế của TP. Hồ Chí Minh bền bỉ ở mức hai con số - thành tích ít tỉnh - thành khác theo kịp. Bước sang giai đoạn sau, thành phố tăng trưởng chậm lại và ổn định dưới 10%, nhưng vẫn luôn dẫn trước bình quân cả nước, trừ "cú sốc" năm 2021 do đại dịch Covid-19. Hiện, thành phố đặt mục tiêu trở lại thời kỳ tăng trưởng hai con số sau năm 2025.
Quy mô kinh tế của TP. Hồ Chí Minh cũng có bước nhảy vọt. Đến năm 2024, GRDP cán mốc gần 1,8 triệu tỷ đồng - gấp hơn 27.000 lần so với năm đầu đổi mới. Từ chỗ chỉ chiếm khoảng 10% quy mô kinh tế cả nước, TP. Hồ Chí Minh từng có giai đoạn chiếm tới 25%, trước khi dần giảm xuống mức hơn 15% như hiện nay. Dù vậy, nơi đây vẫn giữ vai trò "xương sống" của nền kinh tế quốc gia. Trải qua gần bốn thập niên, TP. Hồ Chí Minh vẫn dẫn đầu cả nước về tổng vốn đầu tư nước ngoài với con số lên đến 58,45 tỷ USD.
Trong thời điểm cùng cả nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đất nước vươn mình, trong mô hình tăng trưởng mới, TP. Hồ Chí Minh lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, lấy kinh tế tư nhân (gồm cả doanh nghiệp FDI) làm động lực phát triển. Trong mô hình tăng trưởng này, giáo dục là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để vận hành nền kinh tế tri thức; thúc đẩy nội lực doanh nghiệp, tái cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, thị trường xuất khẩu, tăng cường liên kết vùng và chủ động hơn trong quan hệ kinh tế quốc tế.
![]() |
Từ năm 2020 đến nay, TP. Hồ Chí Minh trải qua ba đợt sáp nhập, tinh gọn bộ máy hành chính, giảm gần 40 nghìn nhân sự; đã giảm từ 21 cơ quan chuyên môn còn 15, từ 8 cơ quan hành chính khác còn 4 và từ 35 đơn vị sự nghiệp còn 32. Dù khá bề bộn, nhưng các đơn vị sáp nhập hoạt động ổn định, không gây xáo trộn đến người dân và doanh nghiệp, không gây phiền hà, ách tắc, không làm mất chi phí, công sức khi chuyển đổi giấy tờ. Đó cũng là kinh nghiệm cho đợt sáp nhập 273 phường, xã, thị trấn đang được tiến hành theo chủ trương của Trung ương. TP. Hồ Chí Minh làm việc với tỉnh Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu để hoàn tất phương án sáp nhập và điều chỉnh ranh giới các phường giáp ranh.
Sau khi sáp nhập, TP.Hồ Chí Minh sẽ là một siêu đô thị với quy mô kinh tế chiếm khoảng 24% GDP cả nước và đóng góp hơn 26% vào ngân sách quốc gia.
Ảnh trong bài: Phong cảnh TP Hồ Chí Minh