Có gì đặc biệt tại siêu phẩm Jetski bắn pháo hoa lấy cảm hứng từ nàng tiên hạc Cát Bà?

Du lịch 24/03/2025 17:11
Ấn Độ có khoảng 14,103 km đường biên giới đất liền và 7,516 km bờ biển, diện tích khoảng 3,3 triệu km2. Đất nước Ấn Độ là quốc gia đông dân nhất trên thế giới với dân số hơn 1.450.940.000 người đã vượt qua Trung Quốc 1.419.320,000 người (theo thống kê năm 2024 của Liên Hợp Quốc) đồng thời có diện tích lớn thứ bảy trên thế giới. Đây còn là một đất nước có nhiều cảnh đẹp thu hút du khách đến rất đông. Ấn Độ được xem là “cái nôi” của Phật Giáo, nơi khởi nguồn của đạo Phật – một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới. Nơi đây còn lưu giữ nhiều thánh tích, di tích gắn liền với cuộc đời Đức Phật Thích Ca và lịch sử phát triển của Phật Giáo Ắn Độ. Một trong những điểm độc đáo của Ấn Độ thu hút những ai yêu thích khám phá là sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo; Dù nơi đây là cái nôi của đạo Phật nhưng có đến 80% dân số theo Ấn Độ giáo (đạo Hindu).
![]() |
Tác giả (ngồi giữa) trong chuyến hành hương |
Đoàn hành hương chúng tôi xuất phát từ TP Hồ Chí Minh có 12 du khách và Hướng dẫn viên (HDV) Lê Du, sau chuyến bay gần 5 giờ đến sân bay New Delhi, đoàn chuyễn sang máy bay nội địa bay thêm hơn 1,5 tiếng đồng hồ đến sân bay Patna thì có thêm HDV người địa phương là bạn Rajesh Tripathi đi cùng. Ngay trong buổi sáng đoàn đến tham quan Trường Đại học Phật giáo đầu tiên trên thế giới (chỉ còn lưu giữ những dấu tích xưa) cảnh quan vô cùng tuyệt đẹp. Vừa ăn cơm trưa xong chưa kịp về khách sạn nghỉ ngơi thì HDV đưa đoàn đi tham quan Núi Linh Thứu là 1 trong những ngọn núi cao bao bọc xung quanh thành Vương Xá, là nơi Đức Phật giảng dạy nhiều bộ kinh quan trọng trong lịch sử Phật giáo và các truyền thuyết Phật giáo như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm và kinh Đại Bát Nhã... Mặc dù trải qua hành trình suốt hơn 20 giờ chưa được nghỉ ngơi, ai nấy cũng đều mệt lả khi leo núi, nhưng như có phép mầu nên ai nấy cũng đều hớn hở, thậm chí có đội quân võng thuê người địa phương mời chào (khoảng 600 ngàn tiền Việt/người khứ hồi) nhưng ai cũng tự nguyện đi bộ, đoàn viếng thăm hang động từng là nơi thắp hương của Ananda và Sariputta (là những đệ tử thân cận của đức Phật). Sau khi qua cầu Linh Sơn, có một hang đá nhỏ ở bên phải. Ananda đã từng ngồi thiền ở đây, và có một vết nứt lớn chạy dài từ Đức Phật phía sau hang động, tương truyền là nơi Đức Phật dang tay ra với thần lực từ phòng mình xuống đặt lên đầu Ananda để trấn an ngài. Đi xa hơn nữa là động của ngài Xá Lợi Phất. Trong hang động này có một hòn đá nhô ra như đầu rắn, Xá Lợi Phất thường sống ở đây và quản lý nó trong thiền định. Từ hang động Xá Lợi Phất, men theo con đường ngoằn ngoèo với các nấc thang, đến một mỏm đá có hình con chim mỏ nhọn hướng lên trên. Có lẽ vì hình dáng này mà núi được đặt tên là “Linh Thứu”. Khi đến đỉnh cao của núi (rộng khoảng 100m2) thì du khách ngồi thiền (lộ thiên) trước nơi thờ Phật Thích Ca và vô số chư Phật luôn có hương hoa, không gian tĩnh lặng.
![]() |
Các thành viên trong đoàn hành hương |
Đến ngày thứ 3, đoàn đến chiêm bái Tháp Đại Giác Ngộ cao 55m tại Bồ Đề Đạo Tràng, Tháp được xây dựng từ triều đại Gupta, khoảng thế kỉ thứ 2-4, trên đỉnh có có 300kg vàng do Phật giáo Thái Lan cúng. Phật tích này là nơi “xuất pháp đạo Phật” và là di sản văn hoá thế giới, đón hàng triệu du khách mỗi năm. Tháp có 9 tầng, hình chóp như kim tự tháp có cạnh dài 15m. Ở 4 góc tháp chính còn có 4 tháp nhỏ. Trong nhiều thế kỷ, tháp này đã trở thành mô hình kiến trúc lý tưởng về tháp Phật giáo tại các nước Phật giáo Nam tông ngoài Ấn Độ. Mỗi mặt tháp có khắc hình Phật và Bồ-tát của Đại thừa, trong đó, mô-típ tượng thiền định, xúc địa và chuyển pháp luân tượng trưng cho cuộc đời tu đạo, nhập thế và hoằng hóa của đức Phật, là nổi bậc nhất. Bên trong tháp là tượng Phật Thích-ca bằng ngọc, mạ vàng, trong tư thế xúc địa, hướng mặt về phía Đông, ghi dấu nơi đức Phật đã thành đạo. Tượng được tạc vào năm 380 sau Tây lịch có kiến trúc đặc biệt.
Cây Bồ đề, còn được biết đến với tên khoa học là Ficus religiosa, đã chứng kiến những bước tiến quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật. Dưới gốc cây Bồ đề, Đức Phật đã ngồi thiền định và từng bước giác ngộ về các giáo lý của Phật giáo. Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã đi khắp châu Á để truyền bá đạo Phật. Từ đó, cây Bồ đề trở thành biểu tượng của may mắn.
![]() |
Tác giả (đứng giữa) và người thân (bên phải) trong chuyến hành hương |
Hơn 2500 năm trước, thái tử Sidhartha (Tất Đạt Đa) của vương quốc Kapilavastu ở miền bắc Ấn Độ (thuộc Nepal ngày nay) để thoát khỏi nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử và cứu độ chúng sinh, ngài kiên quyết từ bỏ ngai vàng, cuộc sống vương giả, xuất gia tu hành nhằm tìm kiếm ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Sau nhiều năm tu khổ hạnh mà không đắc đạo, ngài đã từ bỏ phương thức này, ăn uống bình thường trở lại, song vẫn quyết tâm tìm ra chân lý tối hậu. Tại Bodh Gaya - Bồ đề đạo tràng, ngài ngồi dưới gốc cây bồ đề trong 7 ngày 7 đêm, vượt qua mọi cám dỗ xấu xa, vào lúc bình minh, ngài đã đạt được giác ngộ và cuối cùng trở thành Phật. Vì vậy, Phật giáo luôn coi cây bồ đề là một loài cây thiêng, một biểu trưng đánh dấu sự kiện đại giác của đức Phật. Bồ đề (Bodhi) còn có nghĩa là giác ngộ, rộng ra, đó là trí tuệ để buông bỏ phiền não thế gian. Khi đức Phật nhập niết bàn, vị trí cây bồ đề là một trong bốn nơi đầu tiên được dành để tưởng niệm Ngài.
Cây bồ đề nguyên bản đã nhiều lần bị phá hủy và trồng mới, trong đó sự kiện gây chấn động là việc quân đội Hồi giáo của Muhammad Bakhtiyar Khalji đã phá hủy toàn bộ các Thánh tích Phật giáo, bao gồm cả cây bồ đề vào khoảng thế kỷ XII, điều này cũng dẫn tới sự suy thoái của Phật giáo ở Ấn Độ. Tuy nhiên, rất may mắn là trước đó vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên, công chúa của vua Ashoka là Saṅghamittā đã mang một cành của cây bồ đề về vườn Mahamega ở Sri Lanka để trồng. Năm 870 sau Công nguyên, người ta lấy cành từ Sri Lanka và trồng lại tại nơi Đức Phật giác ngộ để tái sinh cây bồ đề. Ngày nay nó đã trở thành một cây cổ thụ khổng lồ, bao quanh chùa Mahabodhi.
![]() |
Các thành viên của đoàn hành hương |
Có thể thấy rằng, cây bồ đề mà Đức Phật “khai sáng” đã trải qua vô số thăng trầm và huyền thoại, được công nhận trong cộng đồng Phật giáo như một biểu tượng của “Đại giác ngộ”. Theo Đại Trí Độ luận, có 5 quả bồ đề, đó là: Nhu thuận nhẫn bồ đề, Vô sinh nhẫn bồ đề, Thanh Văn bồ đề, Bích Chi Phật bồ đề, Bồ tát bồ đề.
"Cây Bồ đề" là phiên âm của từ Phạn "Bodhi" có nghĩa là sự tỉnh thức và sự thông suốt đạo lý. Mà không có sự tỉnh thức, con người sẽ bị cuốn vào những lầm tưởng và ảo mộng. Cây Bồ đề nơi Tất đạt đa Cồ đàm đã ngồi thiền 49 ngày trước khi giác ngộ vẫn còn sống sau 2.500 tuổi tại làng Bodh Gaya, bang Bihar, Ấn Độ. Các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu rừng tại thành phố Dehradun, bang Uttarakhand, Ấn Độ đã xác nhận điều này. "Cây Bồ đề này vẫn tràn đầy sức sống", nhà khoa học Subhash Nautiyal của Viện Nghiên cứu rừng phát biểu. Sau khi kiểm tra cây, các nhà khoa học đã bỏ những tấm xi măng bao quanh gốc cây để giúp rễ cây hấp thụ nước và dưỡng chất một cách dễ dàng hơn. Gần cây Bồ đề còn có một ngôi đền niên đại khoảng 1.500 năm, đã trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn với du khách từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là người Nhật Bản. Đây là một huyền thoại về cây Bồ đề - một cây thiêng với nguồn gốc lịch sử quan trọng và ý nghĩa tâm linh mà chúng ta vẫn còn thấy hiện hữu trong cuộc sống hiện đại. Cây Bồ đề vẫn tiếp tục là một biểu tượng tôn giáo và mang lại hy vọng, may mắn và sự thịnh vượng cho những ai tôn kính nó.
Đoàn tiếp tục thăm chùa An Việt Nam Phật Quốc Tự gần khu vực Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) tại Ấn Độ là một thánh tích quan trọng nhất của Phật giáo thế giới. Ngày nay, Bồ Đề Đạo Tràng có thể ví như một Liên Hiệp Quốc Phật tự, vì nơi đây đã tập trung được các tự viện của nhiều nước trên thế giới. Cây Bồ đề nơi Đức Phật thành đạo đã trở thành một thánh tích thiêng liêng, đã chứng kiến những bước tiến quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật. An Việt Nam Phật Quốc Tự được thầy Thích Huyền Diệu khai sơn và xây dựng vào năm 1986, khánh thành vào năm 2003. Chùa tọa lạc trên một khu đất rộng 3,5 ha, cách Bồ Đề Đạo Tràng và khu vực thị tứ gần 2km về phía Tây Nam. Ngôi chánh điện hình vuông được xây dựng kiên cố bằng bê tông cốt sắt, diện tích 256 m2, 3 tầng, cao 24m. Tầng trệt là pháp xá; tầng hai dùng để trưng bày những di tích, kinh sách, pháp khí; tầng ba là điện thờ Phật; Điện Phật được bài trí trang nghiêm; Hương án giữa tôn thờ ba vị Phật: Thích Ca, A Di Đà và Dược Sư. Bàn hai bên thờ Bồ tát Quán Thế Âm Thiên thủ Thiên nhãn và Bồ tát Địa Tạng. Các pho tượng thờ đều được tạc bằng gỗ tại Việt Nam. Trong khuôn viên chùa còn có cổng tam quan; bảo tháp chín tầng, cao 36m, thờ Xá Lợi Phật; tháp chuông … Các công trình kiến trúc của chùa đều đẹp, từng chi tiết đều mang ý nghĩa Phật pháp và thể hiện tâm thức Việt Nam. Đặc biệt, chùa có vườn cây ăn trái và hoa kiểng phong phú. Chùa trồng nhiều loại cây ăn trái vùng nhiệt đới như vải, mít, bưởi, xoài …; mang giống nhiều loại hoa kiểng từ Việt Nam sang như đào, mai vàng, sứ … Chùa cũng trồng nhiều loại cây cỏ có sự liên quan đến đời sống đức Phật như cây sê-sam, cây long hoa, cây cỏ cát tường …Việt Nam Phật Quốc Tự ngày nay là điểm tham quan, chiêm bái nổi tiếng ở đất Phật. Hằng ngày, chùa đón tiếp nhiều đoàn hành hương khắp nơi trên thế giới. Ngoài ra, đoàn cũng được tham quan An Việt Nam Phật Quốc Tự tại Nepal (còn đang xây dựng gần Lâm Tỳ Ni).
Đoàn tiếp tục đến thăm Vườn Lâm Tỳ Ni được biết đến là một trong tứ Thánh tích Phật giáo quan trọng, đánh dấu nơi Đức Phật Thích Ca đản sinh hơn 2500 năm về trước.
Cũng tại nơi đây, khi vừa được hạ sinh, Ngài đã bước đi bảy bước, được hoa sen nâng gót và Ngài tuyên bố: “Thiên thượng Thiên hạ, duy ngã độc tôn”, có nghĩa là “Trên trời, dưới đất; chỉ có ta là tôn quý nhất”. Vườn Lâm Tỳ Ni đã chứng kiến những sự kiện kỳ đặc này của Đức Phật. Ngày nay, Thánh tích Lâm Tỳ Ni tại Nepal đã trở thành một trong những địa điểm hành hương thu hút đông đảo khách du lịch khắp nơi trên thế giới. Theo phong tục của Ấn Độ thời bấy giờ, người phụ nữ đến kỳ sinh con phải trở về nhà mẹ đẻ. Khi Hoàng hậu Maya (mẹ của Đức Phật) đến kỳ sinh, bà cũng trở về quê ngoại. Trên đường về, bà nghỉ chân tại vườn Lâm Tỳ Ni và đã hạ sinh Đức Phật tại chính nơi đây. Vườn Lâm Tỳ Ni nằm tại quận Rupandehi thuộc Cộng hòa dân chủ liên bang Nepal, cách biên giới Sonauli Ấn Độ khoảng 36km, tọa lạc trên một ngọn đồi thấp dưới chân dãy Himalaya, cách thủ đô Nepal Kathmandu 320km. Di tích Lâm Tỳ Ni đã được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1997.
Hồ nước thiêng là nơi Hoàng hậu Maya tắm trước khi bà hạ sinh Đức Phật Thích Ca, hiện nay vẫn còn được lưu giữ và bảo tồn tại vườn Lâm Tỳ Ni. Vua A Dục (Ashoka) xuất hiện vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch, khoảng 200 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn. Ngài là con của vua Tần Đầu Sa La (Bindusàra) xứ Cam-pa-la. Vua A Dục là một vị đại đế của Ấn Độ sau thời Đức Phật, một vị cư sĩ đại hộ Pháp mà có lẽ chưa có vị vua nào từ trước tới nay sánh bằng. Tên tuổi của vị vua này đã gắn liền với nền nghệ thuật, văn hóa Phật giáo. Vua A Dục đã xây nên rất nhiều trụ đá để đánh dấu Thánh tích của Đức Phật và làm ấn tích cho đời sau, việc này đã được ghi chép trong sử sách.
Tại vườn Lâm Tỳ Ni cũng có cột trụ đá do vua A Dục xây dựng dựa theo các ấn tích để lại. Đó là minh chứng cho thấy Đức Thế Tôn đã đản sinh tại đây. Tại vườn Lâm Tỳ Ni có một đền thờ, thờ di tích dấu chân đầu tiên của Đức Phật và tảng đá điêu khắc hình Hoàng hậu Maya đang hạ sinh Thái tử Tất Đạt Đa (được tìm thấy tại vườn Lâm Tỳ Ni). Khi đến Thánh tích Lâm Tỳ Ni, nếu chúng ta hiểu, ghi nhớ và niệm được ân đức của Phật, sinh ra chấn động tâm thì sẽ được phước báo. Này A-nan, sau khi ta diệt độ, trai hay gái con nhà dòng dõi nhớ nghĩ khi Phật giáng sinh có những công đức như thế, khi Phật đắc đạo có những thần thông như thế, khi Phật chuyển pháp luân có những sự hóa độ như thế, khi Phật diệt độ có những lời di huấn như thế. Rồi mỗi người đi đến bốn chỗ đó kính lễ, dựng chùa tháp cúng dường. Khi chết đều được sanh lên cõi trời, chỉ trừ người đắc đạo.” Như vậy, khi đến vườn Lâm Tỳ Ni - Thánh tích ghi dấu nơi Phật sinh, chúng ta chấn động tâm khi thấy được sự đản sinh nhiệm màu của Đức Phật, hiểu được ân đức của Phật thì được công đức, phước báu rất lớn. Vườn Lâm Tỳ Ni chính là nơi chứng kiến sự đản sinh cao quý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây là một minh chứng chắc chắn, khẳng định Đức Phật hoàn toàn có thật trên thế gian này.
Đoàn tiếp tục đến Kushinagar chiêm bái nơi Phật Thích Ca nhập niết bàn (trùng ngày rằm tháng 2 âm lịch nên du khách rất đông). Theo các ghi chép, ngày Rằm tháng hai năm 544 trước công nguyên, Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết bàn khi Ngài tròn 80 tuổi, hoàn tất sứ mệnh truyền bá chân lý và đạo đức, khải mê, khai ngộ, giúp nhiều người giác ngộ, giải thoát.
Khi ấy, giữa rừng cây sa la, bên bờ sông Hiranyavati thuộc Kushinagar, Đức Phật nằm nghiêng bên phải, chân trái áp lên chân phải, trong tư thế chánh niệm, làm chủ toàn thân, rồi nhắc nhở: “Này các đệ tử, tất cả pháp hữu vi đều vô thường. Hãy tinh tấn, chớ đừng buông lung”. Nói xong, đức Phật nhập vào thiền định và vô dư Niết bàn.
Lễ hỏa thiêu đức Phật được cử hành trọng thể tại Mukut Bandhan (Rambhar), tại đây, ngôi tháp lớn được xây dựng, về sau được đại đế A Dục (Asoka) trùng tu.
Sau lễ hỏa thiêu, dưới sự điều phối của Bà la môn Dona, toàn bộ xá lợi của Đức Phật được phân thành 8 phần, chia đều cho 8 vua trị vì 8 vương quốc miền Bắc Ấn Độ để xây tháp đá tôn thờ. Sau này, các xá lợi Phật được đại đế Asoka phân chia và tôn thờ trong 84.000 tháp do ông xây dựng. Ngày nay các xá lợi xương của Phật được tôn trí trong nhiều tháp khắp nơi trên thế giới.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về ngày này, nhưng đều có chung một ý nghĩa về ngày Đức Phật nhập Niết bàn là sự chấm dứt nghiệp báo luân hồi, đoạn trừ dục vọng, thanh tịnh tuyệt đối. Có thể hiểu, đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, yên tĩnh, sáng suốt, diệt ái dục, chấm dứt mọi khổ đau, phiền não. Vào ngày Rằm tháng hai âm lịch hằng năm, Phật tử thường đến các tự viện Phật giáo, tham gia các khóa lễ kỷ niệm. Việc cử hành lễ này trước là để hồi tưởng về cuộc đời và đạo nghiệp của Đức Phật, sau là tán dương công hạnh và những giá trị đạo đức sáng ngời, những triết lý bất diệt, phương pháp và con đường hướng đến giác ngộ, giải thoát khổ đau mà Ngài để lại cho tín đồ Phật tử.
Về nghi thức vốn không quan trọng, điều quan trọng là chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của sự kiện Đức Phật nhập Niết bàn. Niết bàn không phải là con người mất đi sinh mạng và rời bỏ thế gian, mà là để chỉ cảnh giới lý tưởng cao nhất mà người tu đạo có thể đạt được khi đạt đến giác ngộ tuyệt đối, tức thoát khỏi mọi tham ái, sân hận và si mê trong cuộc sống và đạt đến bình lặng tuyệt đối.
Qua đó khuyến khích học theo gương sáng của Ngài, thực hiện những lời phó chúc của Ngài để tự độ và độ tha. Đạo Phật sở dĩ tồn tại 2000 năm là nhờ vào “sống thật” tức tuân theo quy luật của tạo hóa, dù là ai thì cũng không thể vượt qua “sinh, lão, bệnh, tử”. Nhưng cần hiểu rằng, Pháp thân của Phật là không có sanh diệt. Là người con Phật chúng ta cần phải nhận thức rõ về ý nghĩa sự kiện này như sau:
Đầu tiên là “sắc thân giả hợp vô thường tạm bợ”: Sự kiện Đức Phật nhập Niết bàn là một sự nhắc nhớ cho thế nhân về sự tạm bợ của kiếp người cũng như thân xác tứ đại. Tử - sanh là ải phải đi qua, dù muốn dù không đều theo lẽ ấy mà vận hành. Chính vì vậy người con Phật phải thấu rõ lẽ này, đừng nên rời bỏ chân tâm tự tánh mà níu giữ những thứ giả tạm. Thứ hai là nhắc nhớ về thực hành lời dạy của Đức Phật: Đức Phật trước khi nhập niết bàn đã dạy chúng ta nên “lấy giới làm Thầy”. Là người Phật tử, tưởng nhớ đến Ngài cần phải tâm niệm điều này, giữ gìn chánh pháp Như Lai, làm lành lánh dữ, gạn đục khơi trong thông qua hành trì tam quy, ngũ giới. Thứ ba là kiểm soát thân tâm cố gắng đạt đến bình lặng tuyệt đối: Đức Phật nhập niết bàn tức là thoát khỏi mọi tham ái, sân hận và si mê trong cuộc sống và đạt đến bình lặng tuyệt đối.Theo giáo lí nhà Phật, chúng ta sống trong giai đoạn “tiền Phật - hậu Phật”, tức trước khi đức Di Lặc Phật ra đời và sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, rất khó đạt đến cảnh giới giác ngộ và đạt được bình lặng tuyệt đối. Nhưng ở chừng mực nào đó, chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát thân tâm, điều hòa tứ đại, tu dưỡng đạo đức, từng bước rời xa những cám dỗ cuộc đời, phá si mê, sân hận. Học Phật thông qua sự kiện Niết bàn, chúng ta nên cố gắng từng ngày sống trong an lạc bằng những pháp tu mà đức Phật đã dạy.