“Bệ đỡ” khi hết tuổi lao động
Chính sách - Pháp luật về NCT 22/11/2022 18:13
Trên thế giới hiện mới chỉ có 77,5% số người trên tuổi về hưu nhận được một hình thức hưu trí tuổi già và tỷ lệ này có sự chênh lệch lớn giữa các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị, giữa phụ nữ và nam giới. Chính vì vậy, xu hướng già hóa dân số được xem là một trong những thách thức lớn nhất đối với hệ thống an sinh xã hội thế giới.
Nước ta hiện có hơn 3,3 triệu người cao tuổi đang hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội. Ảnh: IT |
Nước ta hiện có hơn 3,3 triệu người cao tuổi đang hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội; gần 900.000 người cao tuổi hưởng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, tương ứng gần 40% tổng số người cao tuổi có khoản tiền lương hằng tháng. Số đông người cao tuổi còn lại cũng chỉ có một số đối tượng (người không có người phụng dưỡng, người từ 80 tuổi trở lên…) với gần 1,9 triệu người đủ điều kiện hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng. Chính vì thế, việc tham gia bảo hiểm xã hội từ khi còn độ tuổi lao động là giải pháp tốt nhất để mỗi người đều có lương hưu khi về già cùng các chế độ an sinh khác.
Thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ ra, cả nước có khoảng 25 triệu lao động làm công hưởng lương (khối kinh tế chính thức), nhưng mới có khoảng 16 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội. Ở khối phi chính thức (không có hợp đồng) hiện có khoảng 21,4 triệu người tham gia lao động, nhưng mới chỉ có 0,2% trong số này tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và 1,9% đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tính chung, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội mới đạt hơn 32% lực lượng lao động trong độ tuổi.
Với vai trò xây dựng chính sách, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội. Tại dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội kiến nghị bổ sung nhóm chính sách thúc đẩy tạo việc làm bền vững đối với người lao động làm việc ở cả khối kinh tế chính thức và phi chính thức, giúp người lao động có nguồn thu nhập để tham gia bảo hiểm xã hội lâu dài. Các quy định nhằm tạo điều kiện để những người đã hết tuổi lao động nhưng còn khả năng lao động và có nhu cầu làm việc cũng được nghiên cứu xây dựng. Còn dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bổ sung nhiều nhóm chính sách, tạo thuận lợi tối đa cho người dân tham gia bảo hiểm xã hội.
Dưới góc độ thực hiện chính sách, ngành Bảo hiểm xã hội đang tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý, điều hành để nâng cao chất lượng phục vụ người dân, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Cùng với đó, ngành tham mưu, kiến nghị cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương có chính sách, giải pháp hỗ trợ, thu hút người dân tham gia bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện… Tất cả cùng hướng tới mục tiêu góp phần bảo đảm an sinh cho người dân, người lao động, giúp người cao tuổi có lương hưu.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách an sinh xã hội dành cho người cao tuổi như chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chính sách trợ cấp xã hội... Mặc dù vậy, cả nước mới có khoảng 39% số người cao tuổi được hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, chính sách đối với người có công và trợ cấp xã hội. Còn tới 61% số người cao tuổi vẫn phải tự lo cho cuộc sống khi đã hết tuổi lao động.
Phần lớn người cao tuổi ở Việt Nam sống ở khu vực nông thôn, sống cùng con cháu, đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn khi chưa có nhiều người được bảo đảm cuộc sống từ lương hưu. Ảnh: IT |
Về bảo hiểm y tế, mặc dù lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân đã được triển khai hiệu quả nhưng vẫn còn khoảng 5% số người cao tuổi (hơn 500.000 người) chưa có thẻ bảo hiểm y tế. Đây hầu hết là những người trong độ tuổi từ 60 đến 79 tuổi, không thuộc nhóm hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc không thuộc đối tượng chính sách ưu đãi xã hội khác.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tuổi thọ của người dân Việt Nam liên tục tăng nhanh, từ 68,6 tuổi vào năm 1999 lên 73,2 tuổi vào năm 2014 và dự báo là 78 tuổi vào năm 2030.
Dân số Việt Nam từ 65 tuổi sẽ vượt 15% tổng dân số vào năm 2039. Năm 2026, Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ dân số già, kéo dài trong khoảng 28 năm (2026-2054), tương ứng với tỷ trọng dân số từ 65 tuổi chiếm từ 10,2% đến 19,9%. Sau đó là thời kỳ cơ cấu dân số rất già (2055-2069), tương ứng tỷ trọng dân số từ 65 tuổi chiếm từ 20% đến dưới 29,9%, với khoảng hơn 30 triệu người cao tuổi.
Như nhiều quốc gia khác trên thế giới, những diễn biến dân số của Việt Nam hiện nay và trong tương lai cũng đặt ra những vấn đề cần sớm được quan tâm, nhất là khi phần lớn người cao tuổi ở Việt Nam sống ở khu vực nông thôn, sống cùng con cháu, đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn khi chưa có nhiều người được bảo đảm cuộc sống từ lương hưu.
Bên cạnh đó, người cao tuổi ở nước ta cũng phải đối diện với gánh nặng “bệnh tật kép” - trung bình một người mắc ba bệnh, có chi phí điều trị lớn.
Để giải quyết tận gốc vấn đề, việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội với các trụ cột chính là bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế có độ bao phủ cao phải được xem là hướng đi tất yếu. Cần sớm được cụ thể hóa ngay trong quá trình xây dựng sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội, nhằm nhanh chóng mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, để ngày càng nhiều người có được “bệ đỡ” khi hết tuổi lao động.