Xã La Dạ chủ yếu là người đồng bào K’ho, mặc dù cuộc sống có nhiều đổi thay so với trước nhưng vẫn còn rất nhiều người mặn mà với việc lưu truyền vốn văn hóa của dân tộc mình. Hằng năm, các lễ hội truyền thống như lễ mừng tạ mẹ lúa, lễ hội đâm trâu,… vẫn được bà con tổ chức trong từng dòng họ. Các dụng cụ ca múa, đặc biệt là những bộ đồng la vẫn được lưu giữ trong dân khá nhiều.
Theo chân ông B’rông Thỉm, chúng tôi đến nhà ông B’dam Nu ở thôn 2. Trong căn nhà gỗ mát mẻ, ông Nu thân mật trò chuyện với chúng tôi: “Mấy tháng trước tôi có mua về một bộ đồng la 8 chiếc với giá 12 triệu đồng. Hiện bộ đồng la của gia đình được cất giữ trong căn buồng ở phía trong rất cẩn thận”. Khi tôi hỏi: “Bỏ ra một số tiền lớn như thế để mua bộ đồng la, ông có suy nghĩ gì không?” Ông cười và nói: “Với người K’ho chúng tôi bộ đồng la rất có giá trị, nó thể hiện một nét văn hóa của dân tộc mình và là một món quà tinh thần rất lớn. Là một người yêu thích văn nghệ, ngày nhỏ xem những người trong làng cầm những chiếc đồng la biểu diễn, tiếng ngân vang mỗi khi đánh lên thu hút sự chú ý của nhiều người, tôi ao ước có một ngày phải mua được một bộ và tự mình biểu diễn cho mọi người xem”. Ông Thỉm cho biết, hiện trong xã có rất nhiều gia đình vẫn lưu giữ được những bộ đồng la có niên đại lâu năm, từ thời cha, ông họ trước đây để lại, họ xem đó như những vật báu trong nhà, được treo ở những vị trí trang trọng và giữ gìn rất cẩn thận.
Ông B’dam Nu
Rời nhà ông B’dam Nu chúng tôi đến nhà bà K’Thị Hem, người còn giữ được những bài hát ru, những câu hát đối đáp giao duyên tình tứ. Giữa cái tĩnh lặng của núi rừng vào lúc xế chiều, xa xa vẳng lại những âm thanh dân ca K’ho nghe thật véo von. Mặc dù không hiểu tiếng K’ho nhưng tôi cũng đoán với giọng như ru lòng người kết hợp với những câu ngắn thì đây chắc hẳn là một bài hát ru của người dân tộc. Ông Nu cho biết, thời còn trẻ bà Hem được mệnh danh là “giọng ca vàng” của núi rừng. Ngồi bên ấm trà, bà Hem tâm sự: “Trước đây trong những dịp lễ, hay đi rừng mình cũng hay hát lắm, nhưng giờ đây một phần vì tuổi cũng lớn với bận nhiều việc gia đình quá nên thỉnh thoảng mới hát. Người K’ho có rất nhiều những bài ca hay, những bài hát đối đáp rất có duyên. Đi với những bài hát đó là những nhạc cụ như sáo, kèn môi, khèn bầu, đàn, trống, chiêng…”. Âm nhạc khơi nguồn cho ca hát bằng nhiều điệu: Hát ru con, hát trong lao động, hát lễ nghi, hát đối đáp,... Tôi có nhã ý muốn mời bà ca lên một đoạn của bài hát giao duyên đặc trưng vùng đồng bào nơi đây, nhưng bà nói “ngại lắm”.
Ông Thỉm cho biết, hiện nay, số người K’ho, đặc biệt là lớp thanh niên biết về những điệu hát trên rất ít, nên có thể coi những người như bà Hem là những truyền nhân đời cuối. Trước những trăn trở của những người “giữ hồn” văn hóa dân tộc K’ho, ông B’rông Thỉm tâm sự: “Nhận thấy những truyền thống văn hóa của dân tộc mình đang ngày càng bị mai một, chính quyền các cấp trong xã cùng những người có tâm huyết từng bước khôi phục lại các lễ hội truyền thống như lễ hội mừng lúa mẹ, lễ hội đâm trâu. Tích cực tổ chức nhiều hội thi, các chương trình giao lưu văn hóa, văn nghệ để bà con có cơ hội tham gia, mong muốn khơi dậy tinh thần trách nhiệm của đồng bào K’ho phải luôn biết cách bảo tồn phát huy nét văn hóa truyền thống của mình. Tuy nhiên đây là công việc cực kì khó. Bởi chỉ có chính những con người K’ho tâm huyết mới có thể vực dậy những nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình”
Bài và ảnh Đỗ Khắc Thể