Đầu năm rực rỡ, du xuân rộn ràng với ưu đãi 50% giá vé bay Vietjet

Thị trường 14/05/2020 08:13
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vừa ra quyết định hạ nhiều loại lãi suất từ 13/5. Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 5%/năm xuống 4,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 3,5%/năm xuống 3%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN với các ngân hàng từ 6%/năm xuống 5,5%/năm.
Lãi suất chào mua giấy tờ có giá qua nghiệp vụ thị trường mở giảm từ 3,5%/năm xuống 3%/năm.
NHNN cũng quy định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD), trong đó tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 0,5%/năm xuống 0,2%/năm, lãi suất tối đa đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng giảm từ 4,75%/năm xuống 4,25%/năm, lãi suất tối đa đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng tại Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), Tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) giảm từ 5,25%/năm xuống 4,75%/năm.
Mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo quy định tại Thông tư số 39/2016 cũng được điều chỉnh giảm từ 5,5%/năm xuống 5%/năm, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của QTDND và TCTCVM đối với các nhu cầu vốn này giảm từ 6,5%/năm xuống 6%/năm.
Giữa tháng 3, NHNN cũng giảm một loạt lãi suất điều hành và trần lãi suất tiền gửi VND. Năm 2019, NHNN có một lần điều chỉnh lãi suất vào tháng 9.
Trước đó, tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho biết NHNN sẽ xem xét giảm thêm lãi suất điều hành, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và thị trường mở. Cơ quan này cũng sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm chi phí giảm lợi nhuận tiếp tục giảm lãi suất cho vay một cách bền vững trong thời gian tới.
![]() |
Lãi suất tiền gửi một số ngân hàng nhỏ vẫn tăng nhẹ |
Theo Trung tâm Phân tích CTCP Chứng khoán SSI - SSI Research vừa có báo cáo thị trường tiền tệ tuần 4-8/5. Trong tuần qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không thực hiện các giao dịch mới trên thị trường mở, có gần 36.000 tỷ đồng tín phiếu và 1,05 tỷ đồng OMO đến hạn.
Tính chung, số tiền NHNN bơm ròng qua thị trường mở là 35.997 tỷ đồng. Thanh khoản các ngân hàng dồi dào, lãi suất trên liên ngân hàng giảm khá mạnh, chốt tuần ở mức 1,88%/năm (hạ 37 điểm cơ bản) với kỳ hạn qua đêm và 2,1%/năm (hạ 35 điểm cơ bản) với kỳ hạn 1 tuần. Chênh lệch lãi suất VND-USD trên liên ngân hàng từ 2%/năm thu hẹp về 1,7%/năm.
Như vậy, gần 147.000 tỷ đồng tín phiếu phát hành giai đoạn 3 tháng đầu năm đã bắt đầu đáo hạn từ nửa cuối tháng 4, số dư giảm liên tục và hiện ở mức 86.000 tỷ đồng. Trong tuần này, thị trường sẽ có thêm 25.000 tỷ đồng tín phiếu đến hạn, lãi suất trên liên ngân hàng dự kiến tiếp tục giảm.
Cũng theo ghi nhận của nhóm phân tích, lãi suất tiền gửi tăng 10-30 điểm cơ bản với các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên ở một số ngân hàng thương mại (NHTM) thị phần nhỏ, hầu hết các NHTM khác giữ nguyên. Tính đến 8/5, các NHTM đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ với 130.000 tỷ đồng dư nợ, miễn, giảm lãi suất (0,5- 2,5%) với hơn 1 triệu tỷ đồng dư nợ hiện hữu và 630.000 tỷ đồng giải ngân mới. Để hỗ trợ các NHTM, NHNN đang xem xét giảm tiếp các lãi suất điều hành để giảm chi phí vốn cho các NHTM.
Mặt bằng lãi suất huy động giảm 25-30 điểm, nhưng khó giảm sâu
Trong báo cáo cập nhật ngành ngân hang mới đây, CTCK VNDirect dự báo dịch bệnh Covid-19 sẽ làm giảm tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) do lợi suất tài sản giảm nhiều hơn chi phí vốn của các ngân hàng. Lợi suất tài sản giảm bởi 2 lý do, ngân hàng hạ lãi suất cho vay đối với các khoản vay mới để thúc đẩy tín dụng trong bối cảnh nhu cầu thấp và việc miễn giảm lãi đối với các khoản nợ hiện hữu dẫn tới việc thoái thu thu nhập lãi, do đó làm giảm thu nhập từ hoạt động này.
Để hỗ trợ nền kinh tế, Chính phủ đã hạ lãi suất điều hành từ 50 đến 100 điểm cơ bản và giảm trần lãi suất huy động từ 25 tới 30 điểm cơ bản đối với các khoản tiền gửi dưới 6 tháng. Do đó, lãi suất huy động của các ngân hàng đã giảm 30-40 điểm cơ bản cho tiền gửi dưới 6 tháng và giảm 20-30 điểm cơ bản đối với tiền gửi trên 6 tháng. Tuy nhiên, theo VNDirect, lãi suất huy động khó giảm sâu do ngân hàng cần duy trì nguồn vốn huy động dài hạn để đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung/dài hạn.
Về mặt bằng lãi suất cho vay, Chính phủ ra chỉ thị yêu cầu ngân hàng giảm 50 điểm cơ bản lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên. Ngoài ra, ngân hàng cũng được khuyến khích giảm thêm lãi suất để hỗ trợ khách hàng, dựa theo đánh giá của ngân hàng về hoạt động của khách hàng.
Một số ngân hàng đã giảm lãi suất tới 2%. Tuy nhiên, lãi suất ưu đãi thường được áp dụng cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh và mức độ giảm lãi suất khác nhau giữa mỗi khách hàng. CTCK kỳ vọng lãi suất sẽ giảm trung bình 1% cho các khách hàng bị ảnh hưởng, nhưng lãi suất sẽ dần tăng trở lại sau khi dịch bệnh qua đi. Dịch bệnh được dự báo sẽ kết thúc vào giữa năm 2020, do đó lãi suất cho vay kỳ vọng giảm 50 điểm cơ bản trong năm 2020.
Do mức độ điều chỉnh giảm của lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động, NIM được dự báo sẽ đi xuống trong năm 2020. Bên cạnh đó, miễn giảm lãi vay sẽ tạo thêm áp lực cho NIM. Việc thoái thu thu nhập lãi có thể sẽ tiếp diễn trong năm 2021 do hiện nay ngân hàng được phép giãn nợ tới tối đa 12 tháng, vì thế sẽ có độ trễ trong việc hình thành nợ xấu. Sau khi dịch bệnh kết thúc, xu hướng của NIM sẽ khác nhau giữa các ngân hàng.
3 nhóm sẽ chịu ít áp lực về NIM hơn. Thứ nhất là những ngân hàng có tỷ lệ thâm nhập thấp trong phân khúc bán lẻ. Việc tiếp tục mở rộng mảng cho vay cá nhân với lãi suất cao hơn sẽ giúp cải thiện lợi suất tài sản, nhờ đó giảm áp lực lên NIM gây ra bởi dịch bệnh.
Thứ hai là các ngân hàng có tỷ lệ cho vay/huy động thấp. Những nhà băng này có thanh khoản tốt hơn và đây là yếu tố quan trọng trong thời kỳ khó khăn. Họ cũng chịu ít áp lực hơn trong việc huy động thêm nguồn vốn mới để đảm bảo thanh khoản khi khách hàng không trả được nợ đúng hạn.
Thứ ba là ngân hàng với khẩu vị rủi ro thấp. Nhóm này sẽ có nợ xấu tăng chậm hơn, do đó giảm nguy cơ phải thoái thu thu nhập lãi.