Nói chuyện truyền thống nhân dịp 22/12 tại Trường THCS Bông Trang
Tin tức 15/05/2018 08:50
Mới 15 tuổi đã được phong tước Quận công và được ban Quốc tính (Trịnh Liễu); năm 37 tuổi được phong Phụ quốc Thượng tướng quân Thượng trụ quốc Thượng trật; năm 42 tuổi làm Trấn thủ Hải Dương và An Quảng; năm 45 tuổi làm Trấn thủ Nghệ An kiêm Thống suất Châu bố chính Quảng Bình; năm 46 tuổi được thăng chức Tả Đô đốc; năm 53 tuổi được thăng chức Thiếu phó; năm 55 tuổi được thăng chức Thiếu úy; năm 65 tuổi được thăng chức Thái phó. Cụ tạ thế ngày 23 tháng Giêng năm Mậu Dần (1698), được Triều đình phong tặng chức Thái tể; năm Canh Dần (1740) được gia phong là Hồng huân Tuy phúc, Hùng lược Nghiêm dực, Huy tiền hậu dụ, Vĩ lược hùng tài Đại Vương; năm Canh Tuất (1742) được truy tặng Đại tư không.
Cụ giữ chức Trấn thủ Hải Dương 2 năm và Trấn thủ Nghệ An kiêm Thống suất Châu bố chính Quảng Bình 22 năm. Cụ rất thương yêu tướng quân, nuôi cho mỗi tướng tá thuộc hạ một người con trai và coi như con đẻ. Tướng nào bị đau yếu, cụ đến nhà thăm, cho thuốc chữa bệnh, tiền gạo; quân sĩ đau yếu, cụ cấp 5 bát gạo trắng, một quan tiền và một con cá khô. Trong thời gian cụ trấn thủ tại hai địa phương trên do vừa có uy võ vừa nhân hậu, đức độ, thanh liêm nên trong và ngoài trấn trộm cướp tiêu tan, Nhân dân có cuộc sống bình yên, vui vẻ.
Mặc dù ở xa quê nhưng cụ luôn hướng về tổ tiên với tấm lòng hiếu kính. Năm Ất Dậu (1685), cụ nhớ Phủ thờ Lương Xá còn làm bằng tre lá nên giao cho em con nhà chú là Đặng Tiến Bá cũng thuộc tướng chọn mua gỗ lim về làm lại. Hàng trăm năm qua, Phủ thờ được tu bổ, sửa chữa thường xuyên và còn đến ngày nay. Năm 1999, Phủ thờ được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp Bằng Di tích Lịch sử - Văn hóa.
Cụ sinh được 14 người con trai, 13 người con gái; trong số 14 người con trai có 6 người được phong tước Quận công, 4 người được phong tước Hầu, 3 người được phong tước Bá và 2 cháu nội được phong tước Quận công, trong đó có Đại Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông. Cụ luôn dạy con cháu chu đáo. Những người con trưởng thành có chức tước, cụ giáo huấn theo con đường: Trung, Ái, Công, Liêm; những người con còn trẻ, cụ dạy văn chương võ nghệ. Năm Nhâm Thân (1692), lúc đó cụ 62 tuổi lại ở Trấn Nghệ An đã 22 năm, cụ làm Tờ khải xin Triều đình ban cho các con vào Nghệ An vài tháng để dạy bảo và được nhà vua ưng thuận. Khi các con cụ đến Hoàng Mai là điểm đầu của Nghệ An, cụ sai một thuộc tướng đem theo 30 lính đến đón, đưa tin rằng: Có phong văn nói các công tử chầu hầu ở Kinh thành biếng nhác, phóng đãng, Ngài giận lắm, vì thế sai điệu hồi khiển trách. Đi đến chợ Tam Chế Giang lại có một bộ tướng nữa đem binh đến cũng nói như trước. Khi đến Trấn dinh, cụ cho trú ở một nơi, không được tự tiện vào bái yết. Sau vài ngày, cụ mới cho vào. Cụ ngồi ở gian chính giữa, buông mành, không cho thấy mặt, cho vào lạy xong bắt cởi áo ra xem mạnh yếu, béo gầy,… và cho mặc áo vào rồi cho ra ngồi ở nhà ngang, ăn cơm rang mắm mặn, dưa nén, canh rau. Hằng ngày vào hầu, cụ đều cho ăn như thế và bảo: Có cơm ăn như vậy còn hơn không có.
Ngay khi mới vào tới nơi, các bà mẹ đều sắm những bộ quần áo đẹp để ban, cụ thu hết, chi ban áo nâu quần vải. Sau 3 tháng sắp đến ngày về Kinh, cụ cho các công tử vào lạy, bắt cởi cả áo ra và dặn bảo rằng: Ta sinh các con như Gia quận công, Lai quận công,… mỗi người đã có danh phận. Ta nhờ tước lộc, sớm khuya chăm việc công, không có của riêng cũng không có thước ruộng nương nào, các con nên sớm tối chăm siêng, gắng công học hỏi cho thông, luyện tập võ nghệ, cưỡi ngựa bắn cung cho giỏi, ruộng là ở đấy, của cũng ở đấy. Khi đã thật giỏi, chẳng những phong cho ruộng đất, bổng lộc,… tất thờ bề trên nuôi kẻ dưới, sáng đời trước phúc đời sau, lại còn hiển danh ở đời nữa. Các con là hiền hiếu thì phải in vào trí khôn, nếu chẳng vâng theo là người con bất hiếu. Các công tử tạ lễ lui ra, lên đường về Kinh, vào chầu vua chúa.
Câu chuyện của cụ Đặng Tiến Thự âu cũng là bài học cho một số quan ngày nay. Con cháu “học không hay, cày không giỏi” nhưng luôn được ưu ái, bố trí chỗ “thơm”, bổ nhiệm cấp tốc, bất chấp quy trình, nên sập “ghế” nhanh, ăn chơi vô độ,… không ít bậc sinh thành say mê “nhiệm vụ”, mải miết kiếm tiền, quên dạy con cháu đạo làm người, phải chăng lỗi tại phụ thân, phụ mẫu?
Đặng Tài Tính