Nhân các sự kiện kỉ niệm 45, 50 năm ngày thành lập Sư đoàn 5, nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn đã bàn giao kỉ vật chiến tranh cho phòng trưng bày truyền thống của Sư đoàn. Cựu chiến binh (CCB) Đinh Thiên Lý, nguyên Trưởng đài 2WC1, D26, F5, không chỉ tặng kỉ vật bản mật mã cho phòng truyền thống của Sư đoàn, mà còn kể lại sự ra đời của bản mật danh trong Chiến dịch mùa Xuân 1975 lịch sử.
Đại tá Nguyễn Thanh Tuyền, Trưởng Ban liên lạc Hội Bạn chiến đấu CCB Sư đoàn 5 phía Bắc, trở lại Sư đoàn 5 đóng quân trên đất Tây Ninh, để bàn về các hoạt động kỉ niệm ngày truyền thống và thay mặt các CCB ở phía Bắc, bàn giao kỉ vật chiến tranh cho Sư đoàn. Kỉ vật lần này gồm 4 tấm hình chụp bộ đội bên chiếc xe tăng và trực thăng Mỹ bị ta phá hỏng trong chiến dịch giải phóng thị xã Mimốt (Campuchia) năm 1970. Chủ nhân của các kỉ vật này là của Thiếu tướng Nguyễn Biền, nguyên Tư lệnh Sư đoàn. Một kỉ vật là bản mật mã gồm 2 bản viết tay trên trang giấy học sinh của anh Lý. Thay mặt cho chủ nhân của kỉ vật bản mật mã, Đại tá Tuyền cho rằng, chính ông nhận được kỉ vật này cũng sửng sốt, vì đây là bí mật quân sự, sao anh Lý lại có được và giữ nó đến bây giờ? Hỏi ra mới hay, thay vì phải nộp lại cho đơn vị theo quy định, anh Lý đã xin thủ trưởng cho giữ lại để làm kỉ niệm, vì chiến tranh đã kết thúc.
Ngược dòng thời gian, từ bản mật mã kỉ vật chiến tranh được Đại tá Tuyền trao lại cho Sư đoàn 5, chúng tôi đã tìm về quê hương của anh Lý, ở huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Câu chuyện về bản mật mã được chính anh Lý kể lại cùng kí ức về mùa Xuân 1975 lịch sử .
Anh Lý kể: "Ngày ấy tôi còn là một anh lính trẻ đầy nhiệt huyết, năng động, có trách nhiệm và yêu nghề. Giờ đây tôi đã ở tuổi thất thập. Bản mật mã tôi giữ là kỉ vật của chiến tranh, mỗi lần nhớ đến miền Nam, nhớ bạn bè, đồng đội, nhớ những kỉ niệm không thể nào quên nơi chiến trường khói lửa, tôi lại lấy bản mật mã ra xem, rồi kể cho con cháu nghe về những năm tháng gian khổ ác liệt ở chiến trường. Tôi nói với các con rằng tuy chỉ là mảnh giấy bình thường với những con chữ tưởng như vô nghĩa, nhưng đó là mồ hôi, xương máu của biết bao đồng đội thân yêu. Lại nói về xuất xứ của bản mật danh lịch sử. Khi ấy bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, phương tiện liên lạc duy nhất của Sư 5 chúng tôi là mạng thông tin 2W. Vì chuyển quân trên địa hình Đồng Tháp Mười cực kì khó khăn, đường dây hữu tuyến triển khai không thuận tiện, nên phương tiện liên lạc giữa Sư đoàn với các đơn vị là thông tin vô tuyến điện, Khoảng 10 ngày sau, Sư đoàn được bổ sung thêm 3 máy 15W khối lượng thông tin liên lạc rất lớn, 2 máy trưởng mạng 2W và 15W phải thay nhau làm việc 24/24 giờ, để bảo đảm bí mật điện đi, điện đến đều phải mã hóa, mỗi ngày phải thay một khóa mật mã, vì vậy khó khăn lại chồng lên khó khăn.

Chiến sĩ thông tin trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Ngày ấy tôi là Đài trưởng mạng 2W, đã từng phục vụ nhiều trận đánh quan trọng, đúc kết được nhiều kinh nhiệm, nên dù thay khóa mật mã thường xuyên, chỉ sau 2 giờ nhận khóa mới là tôi dã dịch được trên 30% bức điện, sau đó các bức điện đến là tôi đã đọc được luôn bằng mật mã, điện đến thì dịch luôn. Nguyên tắc điện đến phải ghi theo mật mã để lưu, nhưng do thành thạo nghiệp vụ nên tốc độ mã hóa thông tin chúng tôi làm nhanh chóng, chính xác và kịp thời.
Những ngày đó mạng 2W chỉ có tôi và anh Khải trực, lúc nào chúng tôi cũng mang cáp nghe trên tai, khi mệt quá thì thiếp đi chốc lát và bừng tỉnh khi nghe thấy đài bạn gọi. Mỗi lần nhận hoặc phát điện cả ba bộ phận trên của cơ thể phải đồng thời làm việc: tai nghe, miệng nói, tay viết, phải linh hoạt, nhanh chóng và chính xác, giữ vững thông tin liên lạc, thông suốt, kịp thời. Mặt dù lúc này sở chỉ huy Sư đoàn có thêm mạng 15W, song ở chiến trường đồng bằng do địa hình sình lầy, kênh rạch nhiều, liên lạc hữu tuyến không thuận tiện nên mạng thông tin vô tuyến điện 2W vẫn đảm nhiệm chủ yếu việc truyền lệnh của chỉ huy đến các đơn vị cũng như báo cáo của đơn vị về Sư đoàn.
Ngày 28/4/1975, chúng tôi truyền điện của Sư đoàn cho Trung đoàn 3 đánh cầu Bến Lức-Long An. Chúng tôi lại nhận được điện của Trung đoàn báo về Sư đoàn với nội dung lính Sư đoàn 18 ngụy từ Xuân Lộc qua Sài Gòn về miền Tây đã bị Trung đoàn chặn đánh, bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, lượng tù binh tăng dẫn nên ta không thể giữ chúng. Nhận được điện của Trung đoàn, Sư đoàn lệnh cho trung đoàn 3 phải thu vũ khí còn tù binh thì phóng thích cho về quê.
Khoảng 11 giờ trưa 30/4/1975, được tin Sài Gòn giải phóng, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh toàn thắng, trên tai còn nguyên cả cáp nghe, chúng tôi sung sướng nhảy lên reo hò, ôm nhau mà khóc, mà cười.
Rời sở chỉ huy từ Vườn Chùa (Thầy Yến) chỉ huy sở Sư đoàn về cầu Tân Hương - Long An, lúc này anh Bùi Huy Lùng, Trung đội trưởng, gặp tôi và đề nghị thu lại mật mã cũ để triển khai mật mã mới. Tôi nói với anh Lùng: Chiến tranh đã hết rồi, bản mật mã này em đã đánh vật với nó suốt mấy tháng nay, từng từ, từng chữ nằm ở vị trí nào chẳng cần xem em cũng biết nó nằm ở đâu và viết ra ngay được, nhưng đây lại là bản mật mã phục vụ Sư đoàn trong chiến dịch lịch sử của dân tộc. Giờ chiến dịch đã kết thúc thắng lợi, em xin anh được giữ lại làm kỉ niệm của cuộc đời người lính trận. Mặc dù rất nguyên tắc, nhưng trước lời đề nghị chân thành của tôi, anh Lùng đồng ý.
Thế là bản mật mã lịch sử trở thành kỉ vật thiêng liêng của tôi. Trong buổi gặp mặt các CCB Sư đoàn 5, được nghe câu chuyện bản mật mã của tôi, Đại tá Nguyễn Thanh Tuyền, Trưởng Ban liên lạc Hội Bạn chiến đấu CCB Sư đoàn 5 phía Bắc, gợi ý tôi tặng lại bản mật mã lịch sử cho phòng truyền thống của Sư đoàn, để thế hệ trẻ hôm nay hiểu rõ hơn về một thời khó khăn, hoa lửa của những người lính chúng tôi trên chiến trường năm xưa".
Anh Lý nói: "Tôi muốn thông qua bản mật mã này, gửi lời thăm hỏi tới các anh Tiệp, Hưng, Lùng, Khải, Bảng, Xung, Thắng, Muộn… cùng các chiến sĩ ở đơn vị thông tin 2W năm xưa và các chiến sĩ trẻ của Sư đoàn hôm nay. Hãy xứng đáng là người lính Sư đoàn 5 Anh hùng".
Kim Châu