Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bản anh hùng ca thời đại Hồ Chí Minh
Sự kiện 29/04/2024 09:12
Điện Biên Phủ - Vị trí chiến lược quan trọng
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía Tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào-Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng. Đối với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam Á.
Chính vì vậy, thực dân Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một “pháo đài không thể công phá”, nhằm tạo bàn đạp chiến lược khống chế khu vực Tây Bắc, Thượng Lào và thu hút, “nghiền nát” chủ lực của ta. Ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, chúng đã tổ chức lực lượng hùng hậu và cơ cấu phòng ngự vững chắc.
Chỉ từ tháng 11/1953 đến tháng 2/1954, thực dân Pháp đã có ngay 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo 105 mm, 1 đại đội pháo 155 mm, 2 đại đội súng cối 120 m, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng 18 tấn, 1 đại đội xe vận tải 200 chiếc, 1 phi đội máy bay 14 chiếc... Tổng số binh lực là 16.200 tên phân bổ trong 3 phân khu, với tất cả 49 cứ điểm yểm hộ lẫn nhau. Mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự; nhiều cứ điểm được tổ chức lại thành những cụm cứ điểm gọi là “trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp”, có lực lượng cơ động, có hỏa lực, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hào giao thông và hàng rào dây thép gai, có khả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi một trung tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che chở bằng hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống công sự phụ (hàng rào hoặc bãi dây thép gai, bãi mìn) và một hệ thống hỏa lực rất mạnh.
Cờ quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm De Castries. |
Nắm chắc tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và chọn nơi đây làm điểm quyết chiến chiến lược với địch. Đây là lần đầu tiên trong cuộc chiến, cả hai bên cùng chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến lược - đòn quyết định kết thúc chiến tranh.
Sức mạnh trí tuệ và lòng dân
Với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, quân và dân ta đã huy động hơn 260.000 dân công từ các địa phương, gần 21.000 xe đạp thồ, 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, hơn 300 xe ngựa, 11.800 bè mảng, vận chuyển 25.000 tấn lương thực, 1.200 tấn đạn, hơn 1.700 tấn xăng dầu… bảo đảm cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch, gồm 55.000 bộ đội chủ lực, 33.300 thanh niên xung phong/dân công phục vụ chiến dịch.
Ở nhiều nơi do địch đánh phá không làm kịp, để có lương thực kịp thời nuôi bộ đội, đồng bào đồng ý giao cả những rẫy lúa, nương ngô cho các đơn vị tự thu hoạch rồi sau ghi số lại. Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn giã gạo cả ban đêm cho bộ đội, điều mà trước đó theo phong tục lâu đời rất kiêng kị. Chỉ có sự tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào Bác Hồ, đồng bào mới sẵn sàng đóng góp cho chiến dịch như vậy. Đó là một nỗ lực phi thường thể hiện bản lĩnh của một dân tộc, một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, đang phải tiến hành cuộc kháng chiến cứu nước trường kì đầy gian khổ.
Truyền thống đoàn kết dân tộc, tư tưởng đại đoàn kết trong thời đại Hồ Chí Minh đã được phát huy mạnh mẽ và những đóng góp sức người, sức của to lớn cho chiến dịch Điện Biên Phủ, còn được thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc.
Trên cương vị người đứng đầu Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng. Không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải hoàn thành cho kì được”.
Đầu tháng 1/1954, trước khi lên đường ra mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Bác. Bác hỏi: “Chú ra mặt trận lần này có khó khăn gì không?”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời: “Chỉ khó khăn là xa hậu phương nên khi có vấn đề quan trọng và cấp thiết thì khó xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị”.
Bác nói: “Tổng Tư lệnh ra mặt trận, tướng quân tại ngoại, trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng”. Những lời dặn dò của Bác là tư tưởng chỉ đạo giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp có căn cứ để xử trí trong quá trình chỉ huy trận đánh.
Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng
Ngày 17/3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức mở màn, quân ta tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống hơn 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ một trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Chiến thắng đầu tiên này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ chiến dịch và uy hiếp trực tiếp đến khu phòng ngự trung tâm của tập đoàn cứ điểm.
Sau “56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”, cùng sự phối hợp chi viện của chiến trường cả nước, quân và dân ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch; thu 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại…
Cứ điểm đồi A1 |
Ngày 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hiên ngang tung bay trên nóc hầm De Castries, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Điện Biên Phủ với đối phương là nỗi kinh hoàng về những tổn thất về quân sự và chính trị, là cột mốc đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân; báo hiệu sự tan rã của chế độ thuộc địa trên phạm vi toàn cầu; là nỗi ám ảnh cho những thế lực xâm lược về sau, từ ám ảnh “Điện Biên Phủ thứ 2” tại Khe Sanh năm 1968, đến ám ảnh “Điện Biên Phủ trên không” tại Hà Nội năm 1972.
Từ trang sử vàng Điện Biên Phủ, đất nước ta không chỉ giành lại độc lập, mà Điện Biên Phủ được coi là thắng lợi to lớn của các dân tộc nhỏ yếu, là niềm tự hào của các dân tộc bị áp bức đang dâng lên mạnh mẽ, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Ở châu Mỹ, Nhân dân Cuba tìm thấy sức mạnh tinh thần của chiến thắng Điện Biên Phủ trong việc bảo vệ những thành quả của cách mạng và vững bước trên con đường của chủ nghĩa xã hội. Ở Bắc Phi, Nhân dân Algeria, Senegal, Madagascar, Morocco, Tunisia đã đứng lên theo tinh thần Điện Biên Phủ để đòi tự do giải phóng và xây dựng thành những quốc gia độc lập.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam, là một trong những đỉnh cao chói lọi, niềm tự hào dân tộc của thời đại Hồ Chí Minh.
70 năm trôi qua kể từ ngày lá cờ “Quyết chiến - Quyết thắng” của Quân đội ta tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, đất nước qua bao biến cố lịch sử, vĩ tuyến 17 đã không còn là giới tuyến chia đôi bờ Nam, đất Bắc. Và gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Kỉ niệm 70 năm Ngày chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nguyện chung sức, đồng lòng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; khơi dậy ý chí, niềm tin và nêu cao khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng.