Chiếc ghe Út Hết vừa đến cánh đồng thì trời chập choạng tối. Càng về chiều, không gian càng tịch mịch. Út Hết giở hổng chân vịt thả chiếc ghe trôi nhè nhẹ trên mặt sông, vừa đi vừa đăm chiêu nhìn mông lung trời đất, sực nhớ cu Mầm đang ngủ say trong ghe, Út Hết đưa tay gõ lộc cộc lên mui, gọi khẽ:
- Cu Mầm, chiều rồi thức dậy con.
Nghe ba gọi, cu Mầm bật người ngồi dậy. Lắm lúc ba đậu ghe bên bờ kênh nào đó rồi lên bờ hái ít rau, mót ít lúa đồng còn sót lại sau vụ mùa, cu Mầm nằm một mình dưới ghe, ngủ quên. Đến khi xế bóng thằng nhỏ mới giật mình thức giấc, hai mắt lờ đờ, người cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ không biết chiều hay sáng. Ba bảo cu Mầm bị “mặt trời đè”, thằng bé tiu nghỉu.
Cu Mầm bước ra lái ghe lấy gàu múc nước rửa mặt, rửa tay, rồi đứng chống hông nhìn đồng nước lạ huơ lạ hoắc. Nó vọt miệng hỏi:
- Mình đang ở đâu vậy ba?
- Tha La - Út Hết đáp gọn.
- Tha La... là đâu? Nghe tên lạ quá! - Nó thắc mắc.
Út Hết lắc đầu:
- Tao cũng không biết, hồi trưa tao hỏi ghe chăn vịt, người ta bảo dòng sông này chảy ngang cánh đồng Tha La. Chắc là ở đây.
Cu Mầm ngập ngừng một lúc cho tỉnh hẳn, buột miệng:
- Ở đây yên tĩnh quá. Hay mình dừng ghe lại đi ba.
Người đàn ông tóc loang loáng màu sương nắng không nói không rằng, chỉ lẳng lặng tấp ghe vào bờ. Ông cầm sợi dây lấy thế nhảy lên bờ cỏ kéo chiếc ghe sát vào rồi cột chặt sợi dây để chiếc ghe không chòng chành, bạt nước. Ông lôi từ trong túi áo ra phông thuốc gò, xé mảnh giấy quyến ngồi se điếu, rít một hơi dài rồi phì phèo nhả khói. Trời êm êm, ngọn gió vờn qua cánh đồng làm đong đưa mấy vạt cỏ bông lau mềm mại. Nắng lơ thơ cuối chân trời nhường chỗ cho màn đêm buông xuống, bụng đói, Út Hết sai cu Mầm vo gạo nấu cơm tiện tay hái mấy đọt rau muống giăng ra sông luộc chín chấm mắm kho. Hủ mắm cá lóc đồng Út Hết ủ thính từ con nước mùa trước, ông bảo mắm đồng ủ càng lâu càng ngon. Bữa cơm trên ghe đơn sơ, trên sông trên đồng có gì thì Út Hết với cu Mầm ăn nấy, rau muống, rau bèo, bông súng, cá đồng... Gặp con nước ngọt, lục bình sinh sôi níu nhau vây kín mặt sông. Cu Mầm thích nhất món canh ngó lục bình ngọt lịm Út Hết thường nấu trong những buổi chiều bời bời gió. Lên sáu tuổi, cu Mầm đã biết nhóm lửa thổi cơm, kho cá luộc rau hay nấu những món canh đơn giản. Chiều ghe ngùn ngụt khói, ngọn khói trắng từ bếp lò bay lên xua tan cái lạnh giá của buổi chiều quê. Khói thổi cơm mằn mặn, khói thuốc gò cay cay, khói lãng du bay về từ xóm làng xa xôi heo hút làm thành mùi hương riêng biệt thấm sâu vào tâm hồn cu Mầm từ cái thuở hai ba con rời khỏi bến quê, biệt xứ...
Đêm xuống, chiếc ghe neo lại trên dòng chảy ngang qua cánh đồng Tha La yên ắng. Muỗi kêu vo ve, con nước mười sáu róc rách trên dòng, bóng trăng lơ lửng trên nền trời đen ngòm đầy bí ẩn. Đêm Tha La đất thở, Út Hết lấy ống sáo trúc treo trên mui ghe đưa lên miệng giữ hơi thổi một điệu nhạc tê tái cõi lòng. Giai điệu này vừa dứt, Út Hết thở dài rồi thổi tiếp một giai điệu khác, buồn hơn, thê lương hơn. Cu Mầm nằm chân này vắt lên chân kia nghe ba thổi sáo. Trong bụng cu Mầm trách thầm ba thổi chi mấy bài hát buồn dữ, nghe một hồi nó rớt nước mắt lúc nào không hay. Cu Mầm quay mặt vào thành ghe, len lén kéo bâu áo chùi nước mắt. Không biết Út Hết có thấy nó khóc hay không mà vẫn điềm nhiên ngồi thổi sáo, chốc chốc có chiếc xuồng ba lá bẻ cong chiếc chiếu lác làm mui chèo ngang qua, nghe tiếng sáo, người đàn bà qua sông cất giọng: “Buồn gần chết mà thổi cái bài nghe rầu thúi ruột vậy, anh hai?”. Út Hết cười hề hề rồi cất ống sáo lấy cái nơm trên mui lội xuống đồng bắt cá, trước khi đi Út Hết còn dặn với: “Ở lại trông ghe nghen cu, có ngủ thì mắc cái mùng lên rồi hãy ngủ, ở đây muỗi đầu sóc dữ lắm”. Cu Mầm chống tay ngồi dậy nhìn theo bóng ba thập thững trong màn đêm giăng mắc phía đồng, chỗ ba lội nước văng lên, trắng xóa...
![](/media/uploaded/images/P%20Manh/VHoa/dem%20tha%20la%20copy.jpg)
Cu Mầm không nhớ nó đã đi qua bao nhiêu cánh đồng, bao nhiêu dòng sông, nó đếm không xuể. Trong tâm hồn thơ trẻ của cu Mầm, kí ức đọng lại trong lòng nó về những nơi đã đi qua không nhiều. Chỗ nào cũng sông nước lênh đênh, xuồng ghe qua lại, đâu đâu cũng là cánh đồng, vào mùa thì vàng màu lúa chín, hết mùa thì trống vắng đìu hiu.
Út Hết chưa bao giờ vội vã trên dòng sông này, việc lui ghe rời một bến bờ nào đó cũng vậy. Đêm nay mệt mỏi thì sớm mai đi tiếp. Hôm nay còn luyến lưu, vương vấn chỗ này thì ngày mai lui ghe cũng chẳng ăn thua gì. Bởi Út Hết không bao giờ đi ngược trở về những dòng sông đã qua, neo ghe nơi bến bờ đã cũ, có lần cu Mầm hỏi ông một câu thật ngây ngô:
- Mai mốt đi hết sông, thì mình đi đâu, hả ba?
Út Hết vỗ đùi cười, ông đùa:
- Ra biển.
Nó nghe mà rùng mình. Nó sợ biển. Nó không biết rằng dẫu có hết một đời người cũng chẳng thể nào đi hết những dòng sông miền Tây mênh mông, chằng chịt. Sông nối sông, những chuyến đời nối nhau, rộn rã.
- Sao mình đi hoài vậy, đi đến bao giờ, ba?
Út Hết nhìn nó trìu mến:
- Đi đến chừng nào gặp mẹ thì thôi!
Nó rưng rức:
- Chắc gì gặp lại mẹ. Mẹ đi bỏ ba con mình luôn rồi!
Nghe cu Mầm nói câu đó, Út Hết giận dỗi đôi mắt trừng trừng, chưa bao giờ cu Mầm thấy ba nó đáng sợ đến thế. Út Hết vung tay tát một cái rõ đau và má cu Mầm, gò má thằng bé đỏ ửng. Lạ thật, cu Mầm không khóc. Phải chăng hành trình xuôi ngược dòng sông tôi luyện cho cu Mầm cái bản tính mạnh mẽ, cứng cỏi của người miền Tây. Họ biết vượt qua đau thương, biết vững vàng trước muôn ngàn thử thách. Họ như cây đước, cây tràm vươn thẳng lên bầu trời mà không ngại bĩ cực, gian lao... Út Hết tát cu Mầm xong lại ôm cu Mầm vào lòng vỗ về suýt xoa, ông hỏi:
- Ba đánh cu Mầm có giận ba không?
Cu Mầm nói nhỏ rí:
- Con không giận.
- Sao vậy? - Út Hết hỏi.
- Trên ghe chỉ có hai ba con, giận ba thì con nói chuyện với ai?
Câu nói của cu Mầm khiến Út Hết điếng người. Câu trả lời đưa Út Hết trở về với hoàn cảnh gà trống nuôi con, trên chiếc ghe vắng bóng người phụ nữ. Hành trình trên sông cũng là hành trình kiếm tìm người phụ nữ đã ra đi trong một chiều quê thẽ thọt tiếng chim trời. Đàn bà đơn độc nuôi con đã khổ, đàn ông nuôi con lại càng vất vả hơn. Nhiều lần thấy bóng ai đội nón lá, mặc áo màu nâu tay cắp rổ đi trên bờ đê, trông quen lắm! Út Hết vội nhảy lên bờ chạy theo gọi “Xoan ơi... Xoan à... Có phải em không Xoan”.
Người đàn bà quay lại, khuôn mặt lạ, lòng Út Hết đau. Xoan, cái tên khắc sâu vào trái tim Út Hết bằng những lỗi lầm và tha thứ, cái tên mà lâu lắm rồi Út Hết không gọi ngoài đời, chỉ gọi trong những giấc mơ, những lần say khướt. Người đàn bà Út Hết khao khát đi tìm hi vọng ngày nào đó sẽ được gặp lại, trên sông hay trên đồng, trên miền đất xa xôi nào đó mà ba con Út Hết đi qua.
“Về đi Xoan, về đây, có anh, có cu Mầm chờ đợi...”.
... Tiếng máy nổ tạch tạch đưa chiếc ghe về xóm. Mấy hôm người trong xóm lại trông thấy có chiếc ghe đậu dưới đám dừa nước ven sông. Chủ ghe là một lão đàn ông người Tàu, tướng cao ráo, bụng to và khuôn mặt lấm tấm nốt ruồi đen nhẻm. Lão thường đến xóm mua gỗ tràm, gỗ đước rồi mang qua biên giới bán lại lấy lời. Chiếc ghe của lão đồ sộ, sơn đen, phía trước chất gỗ, khoang sau là buồng riêng của hắn, không biết trong khoang có gì mà ngó vào chỉ thấy tối om, lúc nào cũng được che chắn bằng mảnh vải rằn ma mị. Lão người Tàu thường neo ghe hai, ba hôm, có khi cả tuần rồi nổ máy ra đi. Mỗi chiều, người trong xóm thấy hắn ăn mặc sang trọng, mái đầu hoi hói cũng được chải chuốt bóng loáng rồi khoan thai lên bờ đi khắp xóm nói cười. Người ta ví cái miệng hắn “dẻo nhẹo như kẹo mạch nha”. Mà hễ đàn ông dẻo miệng thì chuyện ong bướm trăng hoa là chuyện thường tình.
Cơ duyên thế nào mà lão người Tàu lại say đắm cô Xoan, vợ anh Út Hết sống bằng nghề gác kèo ong, đốn cây rừng. Lão đến nhà cô Xoan những khi Út Hết không có ở nhà, ban đầu lão xem gỗ rồi hào phóng mua hết đống gỗ bằng số tiền nhiều hơn cái giá mà cô Xoan đưa ra. Sống bằng nghề đốn gỗ rừng muôn vàn bấp bênh ít ai giàu nổi, bởi thế, khi lão người Tàu trả tiền hậu hĩnh, cô Xoan mừng lắm. Lần nào hắn đến cô Xoan cũng tiếp đãi chu đáo, nấu nước pha trà mời hắn uống, có khi còn bắt con gà mái tơ nấu cháo mang ra ghe mời hắn ăn. Gần ba mươi, trông cô Xoan vẫn xinh như con gái mười tám, mười chín. Nước da trắng ngần, mái tóc dài, đôi mắt đen, to tròn và long lanh như hai hòn ngọc đã để thương để nhớ trong lòng lão đàn ông xa lạ. Những lần neo ghe thêm lâu hơn, những chuyến về xóm thường trực hơn và chiếc ghe ngày càng neo sát lại trước bến sông nhà Út Hết...
Một buổi chiều Út Hết bơi xuồng từ rừng tràm về nhà, trên xuồng chở đầy tàng ong ứa mật. Mật mùa hạn sóng sánh, đặc sệt và ngọt thanh tao. Nhìn mớ tàng ong, Út Hết nghĩ bụng chuyến này bán mật nhất định sẽ mua cho vợ cây kẹp tóc, bộ đồ mới, mua sữa cho cu Mầm. Lòng Út Hết nao nao.
Vừa bơi đến bụi dừa nước cách nhà một quãng sông không xa, Út Hết bỗng trông thấy chiếc xuồng ba lá quen quen, cây sào nhỏ ép xuồng ba lá cạnh chiếc ghe của lão người Tàu buông gỗ. Rõ là xuồng nhà Út Hết, chiếc xuồng tù mũi Xoan thường bơi đi bán cá, bán rau, đi chợ hay đi về nhà ngoại tận xóm dưới. Dấu chấm hỏi lửng lơ trong lòng, không chần chừ, Út Hết cập xuồng lại ghé mắt nhìn vào cái lỗ nhỏ trên vách. Người đàn ông điếng người, mặt đanh lại, nóng bưng. Tay Út Hết nắm lại và nghiến răng thật chặt khi chứng kiến cảnh ái ân giữa vợ với lão người Tàu. Trong ghe, cô Xoan nằm sõng soài, tóc tai rũ rượi. Những nhấp nhô liên hồi khiến chiếc ghe lắc lư nhè nhẹ. Gò má sạm đen của Út Hết bỗng dưng đỏ ửng. Út Hết lấy mái dầm đập một nhát thật mạnh lên mui ghe, mái dầm gãy đôi. Lão người Tàu giật mình bật dậy, cô Xoan mặt tái xanh ngồi nép vào thành ghe nhìn Út Hết qua cái lỗ bằng đôi mắt hoảng hốt, tội lỗi và đầy nhục nhã. Ngay lập tức Út Hết xông vào dộng mấy đấm rõ đau vào mặt lão đàn ông, cái lão người Tàu cao ráo thừa mỡ lại yếu thế trước Út Hết, mũi hắn rỏ máu. Cô Xoan vội vã vận áo quần rồi ngăn không cho Út Hết đánh nữa, ngộ nhỡ xảy ra án mạng thì có nước đi tù. Út Hết quay sang tát cô Xoan bạt tay, đó là lần đầu tiên trong đời Út Hết đánh vợ từ khi hai người về chung sống với nhau. Chẳng biết vợ đau bao nhiêu mà tim Út Hết tả tơi, nhức nhối như sát muối. Cơn ghen lắng xuống, Út Hết nhấn chìm hai chiếc xuồng giữa dòng rồi lội ngược dòng sông trở về nhà ôm cu Mầm đang ngủ say trên võng. Nhìn chiếc xuồng chao đảo rồi khuất dạng trong lòng nước, lòng Xoan nhói đau, chiếc xuồng không còn, tình yêu gãy gánh. Không có chiếc xuồng, vợ Út Hết cũng không còn đường nào khác để quay về đối mặt với chồng, với con, với tình nghĩa vợ chồng mấy năm trời vun vén.
Đêm hôm ấy, chiếc ghe buông rời bến sông xưa, mãi mãi. Chiếc ghe ra đi mang theo cô Xoan, vợ Út Hết với những tủi nhục ê chề, với khổ đau và lầm lỗi.
Có lẽ, ân hận lớn nhất của cô Xoan là không được gặp cu Mầm ấp iu, sưởi ấm, ngắm nghía thật kĩ khuôn mặt con hoặc nói lời xin lỗi trước khi xa rời mãi mãi...
Vợ ra đi, Út Hết với cu Mầm cũng bỏ xóm ra đi. Không phải để chạy trốn nỗi đau mà để tìm vợ trở về với những dấu yêu xưa cũ. Vì cu Mầm cần mẹ. Vì Út Hết cần để được nói lời thứ tha, đàn bà ai chẳng có phút giây yếu lòng?!...
Dòng sông cứ trôi. Cánh đồng nối nhau dọc dải đất miền Tây ngọt bùi, cay đắng. Miền Tây xinh đẹp mà hanh hao, tiêu điều, xơ xác. Ở đó, có những kỉ niệm thật vui, nghĩa tình nồng hậu, có cả những dấu vết u buồn mà chỉ khi gặp nhau người ta mới có thể xóa nhòa niềm đau năm cũ...
Truyện ngắn của Hoàng Khánh Duy