Nâng cao kỹ năng tập huấn viên nguồn chăm sóc tích hợp cho NCT
Sự kiện 28/10/2025 12:47
Ngày 28/10, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV thảo luận tại hội trường về Báo cáo giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ Môi trường (BVMT) năm 2020 có hiệu lực thi hành.
Nhất trí với Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 có hiệu lực thi hành”, đánh giá cao việc Quốc hội, Chính phủ kịp thời ban hành hệ thống văn bản quy phạm để tạo môi trường cho phát triển bền vững, đáp ứng nguyện vọng của cử tri. Đại biểu Nguyễn Minh Tâm (Quảng Trị) thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong công tác tham mưu, xây dựng ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành Luật BVMT năm 2020 và tổ chức thực hiện chính sách quy định tại Luật BVMT năm 2020.
![]() |
| Quốc hội họp tại hội trường sáng ngày 28/10. |
Góp thêm một số nội dung để hoàn thiện thêm “bức tranh” báo cáo của Đoàn giám sát và bổ sung vào dự thảo Nghị quyết, đại biểu Nguyễn Minh Tâm cho rằng, dù báo cáo đưa ra bức tranh tương đối tổng thể về việc triển khai pháp luật về BVMT. Tuy nhiên, đáng tiếc là báo cáo chưa có nội dung đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu 2025 nêu tại Quyết định 1746/QĐ-TTg năm 2019 về Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 (Theo các văn bản này: Đến năm 2025 - Giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương; 50% ngư cụ khai thác thủy sản bị mất hoặc bị vứt bỏ được thu gom; 80% các khu, điểm du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch và dịch vụ du lịch khác ven biển không sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần và túi ni lông khó phân hủy).
Tương tự, Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 21/01/2021; hay quy định tại Điều 64 Nghị định 08/2022/NĐ-CP, lộ trình hạn chế sản xuất, nhập khẩu sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học và sản phẩm, hàng hóa chứa vi nhựa cũng chưa có sự tổng kết, nhìn nhận, đánh giá kết quả.
Thực tế thì hiện nay, lượng rác thải nhựa đổ ra biển Việt Nam được ước tính khoảng 0,28 – 0,73 triệu tấn/năm. Rác nhựa từ ngành khai thác thủy sản (lưới, dây câu, dây thừng) chiếm trung bình 51,7% về số lượng và 73,3% về khối lượng rác nhựa tồn đọng. Tại nhiều vùng du lịch ven biển vẫn ghi nhận vấn nạn rác thải nhựa “áp đảo” cảnh quan biển đẹp; Vấn đề thu gom rác thải nhựa ven biển và trên đảo còn yếu: nhiều địa phương ven biển, hải đảo báo cáo “chưa phân loại được chất thải tại nguồn”, “thiếu phương tiện, trang thiết bị thu gom vận chuyển”.
Rác du lịch (đồ nhựa dùng một lần, túi ni-lông, vỏ lon, vỏ chai…) tại các khu du lịch ven biển và cơ sở lưu trú: tuy có nhiều chiến dịch làm sạch, nhưng vẫn còn “lỗ hổng” hậu thuẫn hệ thống thu gom, đường vận chuyển và xử lý chuyên biệt. Mô hình thí điểm thu gom rác trên tàu cá hoặc dưới biển chỉ mới xuất hiện, chưa thành hệ thống rộng khắp.
Bên cạnh đó, Báo cáo cũng chưa xác lập “ràng buộc trách nhiệm”: chúng ta vẫn chưa rõ ai chịu trách nhiệm cuối cùng khi không đạt chỉ tiêu (Bộ chủ trì, UBND tỉnh, sở/ngành nào?), cơ chế chế tài ra sao, quy trình kiểm tra – công khai – xử lý thế nào? Bên cạnh đó, báo cáo và dự thảo Nghị quyết đã đề cập tương đối kỹ về thực trạng và bộ công cụ - đó là những điểm tiến bộ đáng ghi nhận, nhưng chưa “điểm danh” các cam kết 2025 và chưa gắn trách nhiệm – chế tài để bảo đảm thi hành đúng hạn, tránh tình trạng “ra nghị quyết rồi để đó”.
Đoàn giám sát cần nghiên cứu, bổ sung cơ chế ràng buộc trách nhiệm để rõ người, rõ việc. Chính phủ phân công Bộ NN-TN&MT đầu mối triển khai QĐ 1746, chịu trách nhiệm bổ sung báo cáo kết quả 2025 (chỉ tiêu giảm 50% rác nhựa biển; 80% điểm du lịch ven biển không dùng nhựa một lần đã được thực hiện tới đâu…). Bộ Công Thương & Bộ VH-TT&DL có lộ trình ra sao để hiện thực hóa việc gắn tiêu chí xếp hạng cơ sở du lịch với không nhựa dùng một lần.
![]() |
| Đại biểu Nguyễn Minh Tâm đoàn Quảng Trị |
Các bộ/ ngành liên quan bổ sung hành lang pháp lý và cơ chế hiện thực hóa các cam kết còn giang dở, cụ thể: cơ chế khuyến khích ngư dân thu gom rác thải nhựa; cơ chế tài chính để các cảng cá mua rác thải nhựa của ngư dân, và cơ chế để BQL cảng có chức năng xử lý các tàu cá không mang rác thải nhựa về bờ. Cùng với đó, đề nghị Chính phủ mạnh dạn công khai bảng xếp hạng tuân thủ của tỉnh/thành (địa điểm du lịch, siêu thị, khách sạn đạt chuẩn “không nhựa một lần”); rút giấy phép/giảm hạng cơ sở vi phạm lặp lại và thậm chí, cần có chế tài mạnh tay với những tỉnh không đạt chỉ tiêu thực hiện cam kết về môi trường thì có thể giảm/giữ lại một phần phân bổ nguồn sự nghiệp môi trường năm sau; tỉnh đạt vượt chuẩn được thưởng tăng chi.
“Chúng ta không thiếu hành lang pháp lý về vấn đề môi trường, nhưng lại thiếu cơ chế buộc phải làm và đặc biệt là trách nhiệm đến cùng. Do đó, Nghị quyết giám sát lần này phải được thực thi: rõ người – rõ việc – rõ thời hạn – rõ kết quả; đi kèm thưởng–phạt ngân sách; có chế tài với hành vi “không làm”; và có cơ chế công khai dữ liệu để toàn xã hội cùng giám sát”, đại biểu Tâm đề nghị.
Nếu làm được việc này thì các chỉ tiêu Dự thảo đặt ra – giảm ô nhiễm không khí, nâng tỷ lệ xử lý nước thải đô thị, giảm chôn lấp, vận hành thị trường các-bon, chuyển đổi xanh – sẽ chuyển nhanh từ văn bản thành không khí trong lành hơn, dòng sông sạch hơn, đô thị đáng sống hơn và đạt mục tiêu “biến rác thải thành tài nguyên” thành sự thật. Đó là thước đo cao nhất của hiệu lực pháp luật và niềm tin cử tri, đại biểu Nguyễn Minh Tâm kỳ vọng.