Tuổi cao gương sáng giữa làng quê Vĩnh Đại
Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau 12/09/2025 11:21
Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ nhanh. Tính đến năm 2024, cả nước có hơn 14 triệu NCT, chiếm gần 14% tổng dân số. Dự kiến sẽ đạt gần 17% (17,9 triệu NCT) vào năm 2030 và đạt hơn 25% vào năm 2050. Già hóa đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng, đặc biệt trong bối cảnh phần lớn NCT hiện đang sống ở nông thôn, không có lương hưu hoặc thu nhập ổn định, phần lớn phải tự chăm sóc bản thân hoặc dựa vào gia đình, vốn ngày càng gặp khó khăn do xu hướng di cư, thu hẹp quy mô hộ gia đình và thay đổi vai trò giới.
Thực trạng sức khỏe và suy giảm chức năng nội tại của NCT Việt Nam cho thấy nhiều mối lo ngại. Trung bình, NCT sống gần một thập kỉ cuối đời trong tình trạng có bệnh, suy giảm chức năng hoặc khuyết tật. Có đến 11,7% NCT có ít nhất một loại khuyết tật chức năng, 6,3% gặp khó khăn trong thực hiện các sinh hoạt cơ bản hằng ngày, và hơn 27% có dấu hiệu trầm cảm. Suy giảm cả về sức khỏe thể chất và tinh thần đang khiến nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc ngày càng tăng, không chỉ chăm sóc y tế mà cả chăm sóc xã hội và tinh thần.
![]() |
Tuy nhiên, hệ thống chăm sóc hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của NCT. Dịch vụ y tế chủ yếu tập trung điều trị bệnh cấp tính, thiếu tính liên tục và phối hợp giữa các tuyến; trong khi đó, hệ thống chăm sóc dài hạn còn rất mỏng, thiếu cả về nhân lực, cơ sở vật chất lẫn mô hình cung ứng đa dạng (chăm sóc tại nhà, tại cộng đồng, bán trú, lưu trú...). Việc chăm sóc cho NCT ở Việt Nam vẫn phụ thuộc chủ yếu vào thành viên gia đình, những người thường thiếu kiến thức và kĩ năng chăm sóc, dẫn đến chất lượng chăm sóc không đảm bảo, dễ bị gián đoạn, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của NCT. Vấn đề chăm sóc càng khó khăn hơn đối với các trường hợp NCT sống một mình, hay chỉ 2 vợ chồng NCT sống với nhau và NCT thuộc hộ nghèo, cận nghèo, thiếu hụt sự chăm sóc.
Chăm sóc NCT tại cộng đồng gồm các loại hình dịch vụ chăm sóc được cung cấp tại gia đình và tại cộng đồng, không yêu cầu NCT phải sống lâu dài ở cơ sở chăm sóc tập trung, bao gồm chăm sóc chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Chăm sóc tại cộng đồng cũng là hình thức chăm sóc được hầu hết các quốc gia chú trọng, ưu tiên do nhiều lợi ích. Thứ nhất, chăm sóc NCT tại cộng đồng sẽ giúp hỗ trợ già hóa tại chỗ, là hình thức mà phần lớn NCT lựa chọn; Thứ hai, chăm sóc tại cộng đồng sẽ giúp hỗ trợ thúc đẩy các chức năng của NCT qua việc thúc đẩy NCT được chăm sóc tham gia tích cực trong cuộc sống của họ cũng như trong chăm sóc bản thân ở mức độ nhiều nhất có thể. Thứ ba, chăm sóc tại cộng đồng thường hiệu quả hơn về mặt chi phí so với các hình thức chăm sóc khác, ở cả cá nhân/hộ gia đình và Nhà nước. Thứ tư, chăm sóc tại cộng đồng giúp cải thiện khả năng tiếp cận bởi các dịch vụ chăm sóc được cung cấp ở ngay tại nơi NCT sinh sống; Thứ năm, chăm sóc NCT tại cộng đồng cũng sẽ giúp hỗ trợ giảm gánh nặng cho người chăm sóc trong gia đình; Thứ sáu, chăm sóc NCT tại cộng đồng sẽ giúp tối đa hóa việc sử dụng các nguồn nhân lực tại cộng đồng, như huy động tình nguyện viên chăm sóc…
Trong bối cảnh Việt Nam già hóa nhanh nhưng các nguồn lực dành cho công tác NCT còn hạn chế, thì mô hình CLB LTHTGN đã được Chính phủ Việt Nam thúc đẩy nhân rộng trên toàn quốc, nhằm vừa bảo vệ, chăm sóc, vừa phát huy vai trò của NCT, thông qua cách tiếp cận liên thế hệ, tự giúp nhau và phát huy các nguồn lực ngay tại cộng đồng. Dưới đây là ba văn bản quan trọng về nhân rộng mô hình:
Quyết định 1533/QĐ-TTg (2016) phê duyệt Đề án nhân rộng mô hình CLB LTHTGN giai đoạn 2016-2020.
Quyết định 1336/QĐ-TTg (2020) phê duyệt Đề án nhân rộng CLB LTHTGN giai đoạn đến năm 2025.
Quyết định 1648/QĐ-TTg (2025) phê duyệt Đề án nhân rộng CLB LTHTGN đến năm 2035.
CLB LTHTGN là một tổ chức xã hội tự nguyện tại cộng đồng (cấp thôn/bản/ấp/tổ dân phố), với tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong nâng cao thu nhập, chăm sóc sức khỏe, thúc đẩy sự tham gia xã hội của NCT và hỗ trợ cộng đồng. Mỗi CLB có khoảng 50-70 thành viên, từ nhiều lứa tuổi, trong đó phần lớn (khoảng 60-70%) là NCT, phụ nữ, người có hoàn cảnh khó khăn về xã hội hoặc kinh tế. CLB sinh hoạt hằng tháng và thực hiện nhiều hoạt động thường xuyên khác. Một CLB thường có 8 mảng hoạt động chính, với các chỉ tiêu, chỉ số như sau:
Thông qua 8 mảng hoạt động, CLB vừa giúp bảo vệ, vừa chăm sóc và phát huy vai trò của NCT. Mô hình CLB đã được nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế nghiên cứu, đánh giá. Các bằng chứng đều cho thấy, CLB đã thực sự góp phần chăm sóc, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của các thành viên, trong đó phần lớn là NCT, cũng như hỗ trợ những người ốm yếu, khó khăn tại cộng đồng. Một đánh giá gần đây trên 10.400 thành viên của 186 CLB ở 6 tỉnh/thành phố cho thấy phần lớn thành viên CLB cho biết tham gia CLB họ cảm thấy cuộc sống được cải thiện hơn (99,8%), khỏe hơn (99,7%), thu nhập tăng lên (82%), nhận thức, kiến thức/hiểu biết được cải thiện (99,8%), đoàn kết cộng đồng được cải thiện (99,9%).
Về chăm sóc, CLB đã giúp chăm sóc cả về đời sống tinh thần, vật chất và thể chất của NCT, đồng thời NCT cũng là nguồn lực chính trong thực hiện các hoạt động này khi phần lớn các tình nguyện viên (TNV) chăm sóc cũng là NCT. Với 5-10 TNV chăm sóc tại nhà, mỗi CLB có thể giúp cho khoảng 4-5 NCT có sức khỏe yếu, suy giảm các chức năng trong các hoạt động sinh hoạt hằng ngày, trong chăm sóc đời sống tinh thần, xã hội, cũng như tiếp cận quyền lợi. Đến tháng 6/2025, Việt Nam đã có 9.000 CLB LTHTGN, với khoảng 45.000 TNV chăm sóc tại nhà, chăm sóc cho hàng chục nghìn NCT. Tuy nhiên, tính tích hợp còn hạn chế, chưa hệ thống, chất lượng chăm sóc chưa cao, do TNV ít được tập huấn, thiếu vật dụng, dụng cụ trợ giúp chăm sóc, chưa có hệ thống quản lí ca, chính quyền địa phương chưa vào cuộc, hợp tác với các ngành còn theo vụ việc…
3.1. Một số khái niệm:
Chăm sóc dài hạn cho NCT là các hoạt động được thực hiện bởi người khác để đảm bảo rằng những người bị mất hoặc có nguy cơ bị mất những chức năng cơ bản có thể duy trì ở một mức độ nhất định các khả năng của bản thân, đảm bảo các quyền cơ bản, sự độc lập và phẩm giá” (WHO 2015). Ngụ ý trong định nghĩa của WHO về chăm sóc dài hạn nhằm thúc đẩy cách tiếp cận toàn diện, tích hợp, lấy con người làm trung tâm và can thiệp sớm đối với NCT có nguy cơ và chưa được đáp ứng nhu cầu; các thành tố của chăm sóc dài hạn gồm chăm sóc trong sinh hoạt hằng ngày, chăm sóc điều dưỡng và chăm sóc về tâm lí, xã hội. Các dịch vụ cụ thể gồm: (1): Chăm sóc trong sinh hoạt hằng ngày, bao gồm các hoạt động sinh hoạt hằng ngày cơ bản như di chuyển trong nhà, chuyển từ giường sang ghế; đi lên cầu thang; đánh răng, chải và buộc tóc, cắt móng tay, chân, cạo râu; thay quần áo; sử dụng nhà vệ sinh; tắm và vệ sinh cá nhân; cho ăn, uống; hay các hoạt động sinh hoạt hằng ngày có sử dụng dụng cụ, phương tiện, gồm các việc nhà, ví dụ: chuẩn bị bữa ăn; giặt giũ; dọn dẹp nhà cửa; các hoạt động cộng đồng. Ví dụ: mua sắm hàng hóa; sử dụng phương tiện giao thông công cộng; lái xe; các hoạt động nhận thức, như: gọi điện thoại; quản lí tài chính cá nhân; quản lí thuốc men; duy trì lịch hẹn bác sĩ; công việc giấy tờ, ….; (2) Chăm sóc điều dưỡng: Trị liệu vật lí, phục hồi chức năng, tiêm phòng, đánh giá thuốc, truyền thông về tự chăm sóc, dinh dưỡng và chăm sóc giảm nhẹ; (3) Chăm sóc về mặt tâm lí, xã hội, gồm các dịch vụ tư vấn, kết bạn, hoạt động nhóm, đồng hành (đưa đi chợ/mua sắm, khám bệnh, đi đền/chùa), bảo vệ quyền lợi,…
Chăm sóc dài hạn, để đạt hiệu quả, cần được thực hiện thông qua phương pháp chăm sóc tích hợp, có nghĩa là phải có sự phối hợp và liên thông trơn tru giữa các dịch vụ, nhà cung cấp và các cấp độ trong hệ thống y tế và xã hội, để những NCT có nhu cầu phức tạp hoặc dài hạn - được tiếp cận đúng loại hình chăm sóc, vào đúng thời điểm và ở đúng nơi cần thiết. (Mời đọc tiếp kỳ sau)