Những chuyện cần biết về Điện Biên Phủ
Tin tức - Sự kiện 06/05/2019 16:48
- Chân dung Chritian De Castries (1902 – 1991)
Ở Việt Nam, tên ông thường được gọi là Đờ Cát hay Đờ Cát Xtơ Ri là chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm (TĐCĐ) Điện Biên Phủ.
Ông sinh ngày 11/8/1902. Năm 19 tuổi ông nhập ngũ, rồi được cử đi học trường kỵ binh Saumur và tốt nghiệp sỹ quan, sau đó ông xin nghỉ để chuyển sang môn thể thao đua ngựa. Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông tái ngũ và bị bắt vào năm 1940 rồi trốn thoát trại tù binh Đức. Năm 1941 tham gia lực lượng đồng minh ở Bắc Phi, Ý, miền Nam nước Pháp, miền Nam nước Đức. Năm 1946, Đờ Cát Xtơ Ri được phong hàm thiếu tá và được phái đến Đông Dương chỉ huy trung đoàn kỵ binh Marốc, ông nổi tiếng vì tác phong xông xáo trận mạc. Thời gian tham chiến ở Việt Nam, ông đã chỉ huy nhiều cuốc hành quân ở Hưng Yên, Ninh Bình, và chiến đấu ở Nho Quan. Năm 1951 ông được về nước học trường quân sự Saint Syr, được phong trung tá rồi quay lại Đông Dương làm chỉ huy trưởng binh đoàn cơ động Marốc (Groupement Mobile des Tabors). Chằng may ông bị xe cán gãy hai chân, cuộc đời binh nghiệp tưởng chấm dứt, nhưng nhờ sự nỗ lực của quân y cứu được đôi chân chiến binh. Năm 1952, ông vừa tròn 50 tuổi, sức khỏe được hồi phục và quay lại Việt Nam với hàm Đại tá. Vào lúc 0 giờ ngày 7/12/1953, đại tá Chritian De Castries được chính thức chỉ huy binh đoàn tác chiến Tây Bắc Gono (Le Groupement Opérationnel du Nord-Ouest). Tướng Navarre, chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương giao cho ông nhiệm vụ này. De Castries chỉ huy tập đoàn cứ điểm chống trả cuộc bao vây kéo dài 8 tuần của quân đội nhân dân Việt Nam và được phong quân hàm chuẩn tướng (General de brigade) tại mặt trận ngày 16/4/1954. Tuy nhiên ngày 7/5/1954, quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh bại thực dân Pháp và đồng minh tại TĐCĐ. Trên thực tế, đã kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương cùng với sự hiện diện của quân đội Pháp tại Đông Nam Á. De Castries bị bắt làm tú binh 4 tháng trong khi hiệp định đình chiến đang được các bên liên quan thương lượng ở Genève, Thụy Sĩ.. Ông rời quân ngũ năm 1959 và qua đời ngày 29/7/1991 tại Paris thọ 89 tuổi.
Cuộc đời của một chuẩn tướng có cái tên dài 42 chữ rất trang trọng Christian Marie Ferdinand de la Croix de Castries sinh trong một dòng họ binh nghiệp danh giá, có đến 1 trung tướng, 7 thiếu tướng, 1 đô đốc hải quân và 4 thống đốc đã vĩnh biệt sau khi thất bại trong việc chống lại sức mạnh như vũ bão của chiến tranh nhân dân Việt Nam tại TĐCĐ Điện Biên Phủ sau 37 năm.
Pháo binh của ta trong trận Điện Biên Phủ |
Sự đánh giá TĐCĐ Điện Biên Phủ của các tướng lĩnh Pháp
TĐCĐ Điện Biên Phủ được cho là chưa từng có ở Đông Dương. Về quân số, Dờ Cát còn cho là không thể đông hơn nữa, bao gồm 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, sau còn tăng thêm 4 tiểu đoàn và 2 đại đội lính nhảy dù, 2 tiểu đoàn pháo 105mm 24 khẩu, sau tăng thêm 4 khẩu nữa, một đại đội 155mm 4 khẩu, hai đại đội cối 120mm 20 khẩu, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng 18 tấn, 1 đại đội xe vận tải 200 chiếc và 1 phi đội máy bay 14 chiếc.
Quân số 16200 người được chia thành 3 phân khu, có 10 trung tâm đề kháng, 49 cứ điểm phòng thủ, hỏa lực mạnh liên hoàn yểm trợ cho nhau. 2 sân bay Mường Thanh, Hồng Cúm lập cầu hàng không với Hà Nội. Một cầu hàng không khác do Mỹ thành lập từ Nhật, Nam Triều Tiên, Đào Loan, Philippines đến Bắc Bộ, rồi từ sân bay Cát Bi, Gia Lâm chuyển lên Điện Biên Phủ.
Mỹ còn viện trợ vũ khí mới chế tạo loại bom Henlipholit, bên trong chứa hàng ngàn mảnh câu sắc nhằm sát thương hàng loạt bộ binh đối phương, súng phóng lựu hiện đại nhất của Mỹ cũng có mặt ở đây. Chung quanh đều có giao thông hào, công sự nằm chìm dưới mặt đất chịu được cả đạn pháo 155mm. Dày đặc hàng rào dây thép gai và các bãi mìn với nhiều chủng loại: mìn phát sáng, mìn sát thương, mìn cóc nhảy, mìn xăng khô Napalm để thiêu cháy hàng loạt bộ binh.
Cứ điểm chỉ rộng 2 km2 có đến 12 khẩu 105mm, 4 khẩu 155mm, 24 khẩu cối 120mm, 81mm với số đạn dự trữ khổng lồ hơn 10 vạn viên. Hỏa lực áp đảo hơn 6 lần và hơn tuyệt đối về xe tăng và không quân. Trung bình mỗi bộ đội Việt Minh phải hứng chịu một quả bom, 2 trái pháo, 6 viên đạn cối trong khi không có được che chắn của pháo tự hành hoặc xe tăng trong quá trình tiến công.
Các tướng lĩnh Pháp đều cho rằng TĐCĐ là hiện đại nhất, là một cái bẫy sẽ nghiền nát chủ lực Việt Nam. Tướng Cogny trả lời phỏng vấn rằng: Chúng ta có một hỏa lực mạnh, đủ sức quét sạch đối phương đông gấp 4 đến 6 lần. Tôi sẽ làm tất cả để bắt tướng Giáp phải “ăn bụi” và chừa cái thói muốn đóng vai một nhà chiến lược.
Tướng Navarre tự đắc: “Làm cho Việt Minh tiến xuống khu lòng chảo đó là ước mơ của Đờ Cát Xtơ Ri và toàn bộ tham mưu. Họ mà xuống là chết với chúng ta... cuối cùng chúng ta có được cái mà chúng ta đang cần đó là mục tiêu, một mục tiêu tập trung mà chúng ta sẽ quất cho tơi bời.”
Bộ trưởng Quốc Phòng Pháp René Pleven báo cáo với chính phủ Pháp sau khi thị sát TĐCĐ: “Tôi không tìm được bất cứ ai tỏ ra nghi ngờ tính vững chắc của TĐCĐ. Nhiều người còn mong đợi cuộc tiến công của Việt Minh.”
Các chỉ huy Pháp đều tin tưởng vào lợi thế công nghệ vượt trội và sự chi viện hiệu quả của Mỹ sẽ đánh bại hoàn toàn quân đội nhân dân Việt Nam được trang bị thô sơ hơn nhiều. Có thể nói rằng chẳng một ai trong số chính khách, tướng lĩnh đến thăm Điện Biên Phủ lại bảo rằng: “Ở đây cái thế thua đã bày sẵn.”
Tướng Navarre viết: theo ông de Chevigné vừa ở đó về ngày 02/03/1954 bày tỏ sự khâm phục: “Thật là bất khả xâm phạm. Vả lại, họ không dám tiến công đâu.”
Tướng Cogny còn tin rằng: “Chúng ta đến đây để buộc họ phải giao chiến, đừng làm gì thêm để cho họ sợ hãi mà lánh đi.” (Hồi ký Navarre)
Chủ nhiệm pháo binh Charles Piroth hồ hởi tự đắc: “Trọng pháo ở đây tôi có đủ rồi, tôi chỉ cần biết trước 30 phút thì việc phản pháo rất hiệu quả.” Sau đó phóng viên mặt trận Pierre Schoenderffer còn nhớ câu trả lời của Piroth với cấp trên: “Thưa tướng quân, không một khẩu đại bác nào của Việt Minh bắn đến phát thứ 3 mà không bị pháo binh chúng tôi tiêu diệt.” Nhưng ngày 13/03/1954 mở màn chiến dịch bằng trận Him Lam cả 40 khẩu pháo 75mm đến 120mm của quân đội nhân dân Việt Nam đồng loại nhả đạn, pháo binh của Piroth lập tức bị tê liệt. Trung tá Piroth sau 2 đêm không thực hiện được lời hứa là “bịt miệng các họng pháo của Việt Minh” đã tự sát trong hầm của mình bằng 1 quả lựu đạn. Jean Pouget sĩ quan tùy tùng của Tổng Chỉ huy Navarre, viết trong hồi ký: "Trung tá Piroth đã giành trọn đêm 13/03/1954 quan sát hỏa lực dần dần bị đối phương phản pháo chính xác một cách kinh khủng vào trận địa pháo của ông. Hai khẩu 105mm đều bị quét sạch cùng pháo thủ và 1 khẩu 155mm bị loại khỏi vòng chiến đấu. Trung tá André Trancart, bạn thân của Piroth kể lại: “Mình đã mất hết danh dự. Mình đã đảm bảo với De Castries và tổng chỉ huy sẽ không để cho pháo binh địch giành vai trò quyết định, và bây giờ .... mình đi thôi!”
Tướng De Castries huênh hoang cho máy bay rải truyền đơn xuống chung quanh Điện Biên Phủ với nội dung thách thức, khiêu khích, sẵn sàng đón tiếp Việt Minh bằng vũ lực.
Khi phóng viên báo Francesoir lo ngại về cái thế dưới thấp của lòng chảo, Ông ta nhún vai trả lời: “Được lắm! Họ từ trên cao bắn xuống chúng tôi ư? Tôi sẽ đội cái mũ calô đỏ đứng giữa trời cho họ trông thật rõ mà bắn. Chúng tôi tiêu diệt ngay ở sườn núi phía đông này khi chúng từ các đỉnh núi tiến xuống.” Cho đến ngày 07/03/1954, Navarre định tăng cường cho Điện Biên Phủ 3 tiểu đoàn nữa, De Castries trả lời: “Không cần, sẽ gay go nhưng chúng tôi vẫn giữ được thế cờ.” Khi xảy ra trận đánh, Him lam và Bản Kéo bị tiêu diệt, vị chỉ huy này còn hung hăng đưa xe tăng pháo cối và bộ binh ra phản kích quyết liệt hòng lấy lại những vị trí đã mất nhưng bất thành. Từ đó De Castries thúc thủ trong hầm mái cong chất đầy bao cát dày 3 mét.
Giữa tháng 4 năm 1954 khi mất sân bay Mường Thanh, khu vực chiếm đóng bị thu hẹp, vòng vây của Việt Minh mỗi ngày một siết chặt, De Castries từ huênh hoang, hung hãn bỗng trở nên hãi hùng, hốt hoảng, đâu còn cảnh đội calô đỏ đứng ngoài trời giương ống nhòm quan sát chung quanh nữa, cũng chẳng còn cảnh đều đặn đến kiểm tra các cứ điểm mà suốt ngày cố thủ trong hầm sở chỉ huy chống được đạn pháo 155mm. Mỗi ngày vài lần nói chuyện với Cogny về tình hình bi đát của Điện Biên Phủ và yêu cầu chi viện cứu nguy. Có người đã khái quát tháng ngày chỉ huy của De Castries tại Điện Biên Phủ theo trình tự thời gian từ cảm giác hoan hỉ huênh hoang đến hoang mang hoảng hốt rồi thất trận nhục nhã.
- Thiệt hại của quân Pháp ở Điện Biên Phủ
Dù Pháp đã tăng quân số hơn 16000 nhưng cũng không thể lật được thế cờ. Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ đều bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh, 1447 đến 2293 người chết, 5240 đến 6650 người bị thương, 1729 người mất tích và 11721 tù binh. Toàn bộ 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 10 đại đội quân đội Quốc Gia Việt Nam bị tiêu diệt. Tổng số sĩ quan và hạ sĩ quan bị tiêu diệt và bị bắt 1706 người gồm 1 chuẩn tướng, 16 đại tá trung tá, 353 thiếu úy đến thiếu tá, 2 phi công Mỹ chết và bị thương.
Về không quân có 59 phi cơ bị hủy (38 chiếc bị bắn rơi, 21 chiếc bị phá hủy tại sân bay) 186 phi cơ bị trúng đạn và hư hại ở các mức độ khác nhau, 1 phi cơ C119 của Mỹ bị bắn rơi, Pháp mất toàn bộ trang bị vũ khí xe tăng và pháo binh ở Điện Biên Phủ. Quân đội Nhân dân Việt Nam thu giữ 3 xe tăng, 28 đại bác, 5915 súng các loại, 20 nghìn lít xăng dầu cùng nhiều đạn dược quân trang quân dụng khác.
Quân đội Nhân Dân Việt Nam có 4020 người chết, 9691 người bị thương, 792 người mất tích.
- Ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ
Trần đánh Điện Biên Phủ Pháp đã bị thất bại thảm hại bất ngờ, mặc dù đeo đuổi cuộc chiến nhiều năm, được Hoa Kỳ chi viện đắc lực, Pháp không thể bình định Việt Nam. Pháp không còn ý chí và nhân lực để tiếp tục chiến đấu. Ngày 08/05/1954, chỉ sau 1 ngày Pháp thất thủ tại Điện Biên Phủ, hội nghị Genève bắt đầu bàn về Đông Dương. Pháp bắt buộc phải công nhận quyền tự do thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước Đông Dương, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Thăng lợi quyết định của Việt Minh dưới quyền chỉ huy của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đánh dấu sự chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương. Trận đánh này đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia thuộc địa đầu tiên đã dùng vũ lực buộc quân đội phương Tây rút về nước giành độc lập. Đó là một đòn giáng mạnh vào nước Pháp nói riêng và thế giới phương Tây nói chung. Theo sử gia Douglas Porch, thảm bại Điện Biên Phủ đã "thay đổi diễn tiến lịch sử Pháp.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã cổ vũ các khu vực thuộc địa Châu Phi đồng loạt nổi dậy. Ba tháng sau Điện Biên Phủ nhân dân Algeri, thuộc địa lớn nhất của Pháp đã giành được độc lập. Nửa năm sau đến Maroc, Tuynidi và nhiều nước khác cũng nổi dậy. Đến năm 1967, Pháp buộc phải trao trả độc lập cho tất cả các thuộc địa. Đại thắng Điện Biên Phủ là một thảm họa đánh dấu thất bại hoàn toàn của Pháp trong việc tái xây dựng thuộc địa Đông Dương nói riêng và đế quốc thực dân của mình nói chung sau chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp tổng kết mang tính chất thời đại: “Dân tộc ta có thể tự hào rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chúng ta đã chứng minh một chân lý vĩ đại ngày nay một dân tộc thuộc địa bị áp bức khi đã biết đứng dậy đoàn kết đấu tranh, kiên quyết chiến đấu cho độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược hùng mạnh của một nước đế quốc chủ nghĩa.” |
Christian de Castries, chỉ huy quân Pháp tại Điện Biên Phủ |
De Castries bị bắt sống tại hầm chỉ huy ngày 07/05/1954 đã đánh dấu sự thất bại thảm hại của quân Pháp trong cuộc chiến. Trước khi trao trả về Pháp De Castries đã giành nhiều lời lẽ bày tỏ sự thán phục tài cầm quân của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Viên tướng Pháp chia sẻ: “Tướng Giáp là người thông minh, dũng cảm và giỏi về chính trị. Nay qua trận Điện Biên Phủ tôi thấy tướng Giáp không những giỏi về chỉ huy đánh du kích mà còn giỏi về cả chỉ huy trận địa chiến, chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng và cả về nghi binh đánh lừa tình báo đối phương.”
Điều mà làm cho De Castries hết sức ngạc nhiên là không biết tướng Võ Nguyên Giáp đã tốt nghiệp từ những học viện cấp cao nào. Quân đội viễn chinh Pháp và các tướng tá Pháp là một đội quân nhà nghề, thiện chiến và trang bị hiện đại. Vị tướng này cho biết: “Sự kiện tướng Giáp thắng chúng tôi ở Điện Biên Phủ làm chúng tôi ngạc nhiên về tài năng của ông ấy. Chúng tôi biết Đại Tướng là một trí thức và một giáo sư đã từng dạy học ở Hà Nội. Nhưng không phải nguồn kiến thức nào cũng biến được thành tri thức quân sự, không phải người trí thức nào cũng biến thành vị tướng giỏi đâu.” De Castries thừa nhận tướng Giáp rất sành sõi binh nghiệp và khôn ngoan hơn, tài giỏi hơn ông, thậm chí hơn cả tướng Cogny và tướng Navarre. Tướng De Castries hân hạnh làm đối thủ của tướng Giáp, được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như tướng Giáp. Ông tỏ ra vô cùng ngưỡng mộ và kính phục vị tướng tài ba của dân tộc Việt Nam.
Đại tá Trần Thanh Cảng,
phường 4, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh
(nguồn Wikipedia)