Ngày mai diễn ra Hội thảo “Kinh tế bạc ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới”
TW hội 09/10/2025 08:30
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã nhận diện và phát huy hiệu quả nền kinh tế bạc (silver economy) - một khái niệm chỉ các hoạt động kinh tế gắn với nhu cầu, đóng góp và dịch vụ dành cho NCT. Theo Ủy ban Châu Âu, kinh tế bạc bao gồm toàn bộ hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho người từ 50 tuổi trở lên, từ chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm, nhà ở, tài chính, đến du lịch, văn hóa, giải trí, công nghệ.
Tại châu Âu, giá trị kinh tế bạc năm 2020 ước đạt 7,1 nghìn tỉ euro, đóng góp tới 32% GDP khu vực. Nhật Bản, quốc gia có tỷ lệ NCT cao nhất thế giới đã xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp “trẻ hóa trong già hóa”, khai thác hiệu quả nguồn lực NCT trong lao động, khởi nghiệp và tiêu dùng.
Bài học từ các quốc gia phát triển cho thấy: Nếu có chính sách đúng, kinh tế bạc không chỉ giúp giảm áp lực an sinh xã hội mà còn tạo ra động lực phát triển bền vững.
![]() |
| Chủ tịch Hội NCT Việt Nam Nguyễn Thanh Bình. |
Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh chóng. Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, đến năm 2036, Việt Nam sẽ chính thức bước vào nhóm quốc gia có dân số già, chỉ sau khoảng 15 năm chuyển từ “dân số vàng” sang “dân số già”, tốc độ thuộc nhóm nhanh nhất thế giới.
Tuy nhiên, NCT Việt Nam không chỉ là nhóm yếu thế. Đây còn là lực lượng xã hội đông đảo, giàu kinh nghiệm, vẫn tham gia lao động, sản xuất và có nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng. Nhiều khảo sát cho thấy gần 40% NCT Việt Nam còn tham gia hoạt động kinh tế, nhất là trong lĩnh vực phi chính thức, kinh doanh nhỏ, dịch vụ gia đình.
Kinh tế bạc ở Việt Nam tuy mới ở giai đoạn khởi phát nhưng đã manh nha phát triển ở nhiều lĩnh vực: Chăm sóc sức khỏe, sản phẩm dinh dưỡng, bảo hiểm nhân thọ, du lịch nghỉ dưỡng, thiết bị hỗ trợ y tế, nhà ở thông minh, dịch vụ ngân hàng thân thiện. Tuy nhiên, sự phát triển này còn manh mún, chưa có khung chính sách rõ ràng để định hướng và phát huy hết tiềm năng.
![]() |
| Ông Võ Văn Thắng, xã Cẩm Lạc, tỉnh Hà Tĩnh, NCT tiêu biểu, chủ trang trại thực hiện thành công kinh tế tuần hoàn. |
Cơ hội và thách thức
Cơ hội lớn nhất là thị trường tiêu dùng khổng lồ gắn với NCT. Với 17 triệu NCT hiện nay, dự báo tăng lên 22 triệu vào năm 2040, Việt Nam sẽ có một “thị trường bạc” rộng lớn cho các sản phẩm, dịch vụ từ chăm sóc sức khỏe, công nghệ hỗ trợ, tài chính hưu trí đến văn hóa, giải trí.
Bên cạnh đó, nếu có chính sách phù hợp, NCT vẫn là nguồn lực xã hội quan trọng: Tham gia lao động bán thời gian, làm cố vấn, truyền nghề, khởi nghiệp. Đây chính là tiềm năng đặc biệt của Việt Nam khi kết hợp “trí tuệ bạc” với sức trẻ trong phát triển. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là, hệ thống an sinh xã hội còn hạn chế, dịch vụ y tế - chăm sóc dài hạn chưa phát triển, sản phẩm dành riêng cho NCT còn thiếu, và chưa có hành lang pháp lí cho các doanh nghiệp kinh tế bạc.
Ngoài khía cạnh kinh tế, kinh tế bạc còn mở ra một hướng tiếp cận văn hóa - xã hội mới. NCT không chỉ là khách hàng tiêu dùng mà còn là chủ thể giữ gìn giá trị truyền thống, lan tỏa lối sống lành mạnh, thanh lịch, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ nền tảng văn hóa gia đình và cộng đồng. Việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ dành cho NCT không chỉ mang lại lợi ích tài chính mà còn củng cố “văn hóa bạc”, giúp xã hội ứng xử nhân văn hơn trước thách thức già hóa dân số.
Khuyến nghị chính sách từ góc nhìn Hội NCT Việt Nam
Trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra nhanh chóng, việc phát huy tiềm năng to lớn từ “nguồn lực bạc” không chỉ là yêu cầu cấp thiết về an sinh mà còn là động lực phát triển bền vững của đất nước. Với vai trò đại diện cho gần 17 triệu hội viên, Hội NCT Việt Nam đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm định hình chiến lược quốc gia về kinh tế bạc, bảo đảm NCT vừa được chăm lo tốt hơn, vừa trở thành chủ thể tích cực trong tiến trình phát triển.
![]() |
| Cơ sở sản xuất trà sen Tây Hồ của Nghệ nhân cao tuổi Lưu Thị Hiền (TP Hà Nội) tạo việc làm cho hàng chục lao động. |
Trọng tâm chính sách bao gồm:
Phát triển hệ thống dịch vụ và hạ tầng an sinh. Đầu tư mở rộng mạng lưới bệnh viện, các cơ sở y tế; trung tâm dưỡng lão; cơ sở chăm sóc NCT dài hạn và ngắn hạn, có hình thức “sáng đưa đi, chiều đón về” hoặc “đầu tuần đi, cuối tuần về”; dịch vụ chăm sóc tại nhà. Nhân rộng các mô hình làng hạnh phúc ở khu vực nông thôn, v.v.
Coi các mô hình chăm sóc NCT như nhà trẻ, trường học để có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng các mô hình chăm sóc NCT phù hợp điều kiện phát triển và nhu cầu của NCT; có các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng trong lĩnh vực dinh dưỡng, dược phẩm, thiết bị y tế, nhà ở thông minh, du lịch nghỉ dưỡng dành cho NCT. Hỗ trợ nghiên cứu, đổi mới sáng tạo các sản phẩm và dịch vụ “made for silver” làm cho người già.
2. Phát huy vai trò NCT trong phát triển kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện để NCT tham gia lao động phù hợp, khởi nghiệp, tư vấn, truyền nghề cho thế hệ trẻ. Nhân rộng mô hình CLB Liên thế hệ tự giúp nhau (LTHTGN) và các hình thức kinh tế cộng đồng có sự tham gia của NCT. Chú trọng khai thác “trí tuệ bạc” - kinh nghiệm, tri thức, kĩ năng của NCT thông qua cơ chế kết nối, chia sẻ tri thức giữa các thế hệ.
3. Thúc đẩy truyền thông, nâng cao nhận thức xã hội. Xây dựng hình ảnh NCT là chủ thể tham gia phát triển kinh tế, không chỉ là đối tượng thụ hưởng. Tăng cường giáo dục, truyền thông để cộng đồng, doanh nghiệp và thế hệ trẻ cùng nhìn nhận kinh tế bạc là cơ hội phát triển bền vững.
4. Tăng cường năng lực và vai trò của Hội NCT Việt Nam. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ Hội NCT các cấp hoạt động ổn định, có nguồn lực tài chính bền vững, đặc biệt ở cơ sở. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội về kiến thức kinh tế bạc, kĩ năng kết nối doanh nghiệp, xã hội hóa hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò NCT. Trao quyền cho Hội trong tham gia xây dựng, giám sát chính sách liên quan đến NCT trên các lĩnh vực y tế, an sinh, văn hóa, khởi nghiệp và chuyển đổi số. Phát triển các mô hình kinh tế do Hội quản lý như CLB LTHTGN, Quỹ Chăm sóc và Phát huy vai trò NCT, hợp tác xã/tổ hợp tác do NCT làm nòng cốt. Khuyến khích Hội NCT địa phương liên kết với doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học để hình thành “mạng lưới kinh tế bạc”, vừa chăm sóc, vừa phát huy trí tuệ và sức lao động phù hợp của NCT.
| Kinh tế bạc và NCT Việt Nam 70% NCT sống ở nông thôn, chủ yếu làm nông nghiệp; 40% NCT vẫn tham gia hoạt động kinh tế. Thị trường kinh tế bạc toàn cầu năm 2020 đạt 15 nghìn tỉ USD; riêng châu Âu 7,1 nghìn tỉ euro. |
Kết luận
Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc gia về NCT đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó giao Trung ương Hội NCT Việt Nam tổ chức Diễn đàn kinh tế bạc hằng năm. Kinh tế bạc ở Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng với xu thế già hóa dân số nhanh chóng, đây chắc chắn sẽ là một trong những động lực quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội trong những thập kỉ tới. Nếu được định hướng đúng, kinh tế bạc không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, giảm gánh nặng an sinh mà còn phát huy vai trò, trí tuệ và kinh nghiệm của NCT trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Kinh tế bạc cũng cần được nhìn nhận trong mối liên kết Nhà nước - Doanh nghiệp - Cộng đồng. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo chính sách và hành lang pháp lí; doanh nghiệp là lực lượng tiên phong phát triển sản phẩm, dịch vụ; còn cộng đồng, đặc biệt là các tổ chức xã hội như Hội NCT, là cầu nối để tiếng nói, nhu cầu và nguyện vọng của NCT được lắng nghe. Chỉ khi ba yếu tố này đồng hành, kinh tế bạc mới thực sự trở thành một trụ cột trong chiến lược phát triển đất nước.