Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tiến độ thẩm định sáng chế
Vấn đề hôm nay 25/11/2025 15:36
Theo đó, đối tượng thụ hưởng của Chương trình bao gồm toàn bộ người dân Việt Nam, trong đó ưu tiên các đối tượng: người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công với cách mạng; người cao tuổi; người di cư, lao động ở các khu công nghiệp.
![]() |
| Toàn cảnh phiên họp sáng ngày 25/11. |
Nguyên tắc phân bổ vốn, ưu tiên hỗ trợ ngân sách trung ương thực hiện Chương trình trên địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng biên giới, biển đảo.
Đối với các địa phương tự cân đối ngân sách, chỉ hỗ trợ vốn ngân sách trung ương cho thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách theo nguyên tắc, tiêu chí được cấp có thẩm quyền ban hành.
Tổng vốn thực hiện chương trình giai đoạn 2026-2030 là 88.635 tỷ đồng, bao gồm: vốn ngân sách Trung ương là 68.000 tỷ đồng, trong đó: vốn đầu tư công: 39.200 tỷ đồng; Kinh phí thường xuyên: 28.800 tỷ đồng.
Vốn ngân sách địa phương: 20.041 tỷ đồng, trong đó: vốn đầu tư công: 8.492 tỷ đồng; Kinh phí thường xuyên: 11.549 tỷ đồng. Vốn huy động hợp pháp khác: dự kiến 594 tỷ đồng. Tổng vốn giai đoạn 2031-2035 dự kiến: 36.843 tỷ đồng. Tổng vốn toàn giai đoạn 2026 – 2035: 125.478 tỷ đồng.
Việc phân bổ ngân sách nhà nước thực hiện Chương trình bảo đảm phù hợp với mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Chương trình, kế hoạch hằng năm, tình hình thực tế và khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. Trong đó, phân bổ ngân sách trung ương (bao gồm vốn đầu tư và kinh phí thường xuyên) cho các địa phương theo tổng vốn Chương trình; địa phương quyết định phân bổ chi tiết theo từng nội dung, hoạt động, dự án của Chương trình.
Trong quá trình thực hiện, Chính phủ tiếp tục cân đối ngân sách trung ương trình cấp có thẩm quyền xem xét ưu tiên bổ sung vốn cho Chương trình. Việc bố trí ngân sách thực hiện bảo đảm không trùng lặp với các chương trình mục tiêu quốc gia khác, các hoạt động thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước đã được bố trí đầy đủ từ kinh phí chi thường xuyên hàng năm; có giải pháp lồng ghép nguồn vốn với các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, dự án khác một cách phù hợp; khuyến khích, huy động sự tham gia, đóng góp của các tổ chức, gia đình, cá nhân trong công tác chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển.
Mục tiêu Chương trình nhằm nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở; giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế góp phần xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, thịnh vượng.
Chương trình chia làm 05 Dự án thành phần, đó là: Nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở, đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị cho y tế cơ sở, đào tạo bác sĩ chuyên khoa cho y tế cơ sở…; Nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khỏe, đầu tư thiết bị cho hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khỏe tại tuyến tỉnh, phòng - chống chủ động dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; Nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế, nâng cao năng lực mạng lưới chăm sóc xã hội toàn diện, bảo vệ, chăm sóc phát triển cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; trẻ em là nạn nhân bị hảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, trẻ em bị xâm hại cần được hỗ trợ khẩn cấp…
Chương trình đề ra 10 mục tiêu, cụ thể: Góp phần nâng tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và đạt 95% đến năm 2035. Tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035. Tỷ lệ trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học đến năm 2030 đạt 100%.
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm đầy đủ theo quy trình được hướng dẫn đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%.
Tỷ lệ người dân được tiếp cận với ít nhất 01 kênh thông tin đại chúng chính thống về chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh, nâng cao sức khỏe đạt 50% vào năm 2030 và đạt 80% vào năm 2035. Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.
Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống. Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
Số lượng người yếu thế, người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.
Đại diện cơ quan thẩm tra, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội tán thành sự cần thiết xây dựng Chương trình để thể chế hóa chủ trương của Đảng nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt công tác dân số và phát triển; Chương trình đáp ứng các yêu cầu về điều kiện quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại Điều 19 Luật Đầu tư công. Hồ sơ Chương trình bảo đảm theo quy định.
![]() |
| Ông Nguyễn Đắc Vinh, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội trình bày báo cáo tóm tắt thẩm tra Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. |
Chính phủ tiếp tục rà soát Chương trình với các Chương trình mục tiêu quốc gia đang được Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư để bảo đảm không trùng lắp hoạt động, chồng chéo nhiệm vụ. Hoàn thiện dự thảo Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình.
Bên cạnh đó, Ủy ban Văn hóa và Xã hội cơ bản tán thành với tên gọi, đối tượng thụ hưởng, tổng mức đầu tư giai đoạn 2026-2035, mục tiêu và các dự án thành phần của Chương trình theo đề xuất của Chính phủ. Tuy nhiên, Chính phủ lưu ý một số nội dung về đối tượng thụ hưởng của Chương trình như: Nghiên cứu bổ sung đối tượng ưu tiên là người khuyết tật; đồng thời chỉnh lý quy định về đối tượng ưu tiên theo hướng quy định chi tiết bảo đảm thể chế hóa đầy đủ theo tinh thần Nghị quyết số 72 và thuận tiện trong triển khai thực hiện.
Đề nghị Chính phủ xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; bảo đảm cân đối vốn hợp lý trong thực hiện 02 mục tiêu quan trọng của Chương trình là chăm sóc sức khỏe và dân số và phát triển (mức đầu tư cho các nội dung về dân số và phát triển dự kiến chỉ chiếm tỷ lệ 15,5% so với tổng mức đầu tư giai đoạn 2026 - 2030); đánh giá sát khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, nhất là với địa phương khó khăn trong bố trí vốn đối ứng; tiếp tục đánh giá, có giải pháp huy động các nguồn lực xã hội hóa, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước…
Về mục tiêu của Chương trình, tiếp tục rà soát mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, các nội dung hoạt động của từng tiểu dự án để bảo đảm tính thống nhất, lô-gic theo nguyên tắc quản lý dựa trên kết quả, thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của Chương trình. Các mục tiêu cụ thể cần được xây dựng, cụ thể hóa trên cơ sở mục tiêu chung, có các chỉ tiêu cụ thể để bảo đảm đánh giá được kết quả thực hiện mục tiêu chung của Chương trình.