Các làng nghề Nam Bộ “hối hả” vào Xuân
Kinh tế 11/02/2022 09:45
Bánh tráng vào Xuân
Làng nghề bánh tráng Nhơn Hòa, phường 5, nằm bên dòng sông Vàm Cỏ Tây, cách trung tâm TP Tân An, tỉnh Long An khoảng 2km. Nơi đây, từ hơn 100 năm trước từng nức tiếng khắp Nam Bộ, bởi sản phẩm bánh tráng đậm đà vị và được chính quyền tỉnh công nhận là làng nghề truyền thống vào tháng 12/2013.
Làng có khoảng 80 hộ dân theo nghề làm bánh tráng, đa số làm thủ công. Không ai biết rõ nghề làm bánh tráng ở đây có từ khi nào, người ta chỉ biết rằng, đây là nghề “cha truyền con nối”. Bình quân một ngày, mỗi hộ tráng thủ công được 15kg bánh. Riêng tráng bánh bằng máy cho ra lò khoảng 400kg bánh/ngày/hộ.
Một trong những người gắn bó với nghề bánh tráng nhiều năm, ông Dương Văn Đeo, 65 tuổi, ngụ khu phố Nhơn Hòa 1 chia sẻ: “Gia đình tôi sinh sống chủ yếu dựa vào nghề làm bánh tráng. Vào dịp Tết, lượng bánh tráng tăng thêm được một ít. Hằng ngày, vợ chồng tôi vẫn xay gạo thành bột, nhóm lửa tráng bánh rồi đem phơi. Ngày nay, nghề làm bánh tráng không còn hưng thịnh như lúc trước, chủ yếu lấy công làm lời, nhưng gia đình tôi vẫn gắn bó vì không bỏ được nghề truyền thống”.
Bánh tráng Nhơn Hòa được làm với 100% bột gạo và không sử dụng hóa chất nên có hương vị đặc trưng, độ mặn vừa phải tạo cho bánh độ mềm, dẻo. Bánh có thể cuốn với tôm, thịt, rau, bún, chấm nước mắm chua ngọt hoặc mắm nêm đều rất ngon.
Qua nhiều năm tồn tại và phát triển, những người làm bánh tráng ở Nhơn Hòa không ngừng tìm tòi và sáng tạo ra những cách làm mới. Nhiều hộ mạnh dạn đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.
Sắc Xuân ở làng chiếu Định Yên
Những ngày này, làng chiếu Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp tất bật vào mùa dệt chiếu Tết, cả làng rộn rã âm thanh phát ra từ những khung dệt thô sơ bằng gỗ và những chiếc máy dệt chiếu tự động. Nơi đây, từ trong nhà ra ngoài ngõ giăng đầy những sợi lác đã nhuộm màu xanh, đỏ, vàng, tím...
Người cao tuổi chăm chút sản phẩm chiếu Định Yên trước khi giao hàng cho khách. |
Bà Trần Thị Dính, ở ấp An Lợi, xã Định Yên chia sẻ, bà đã có trên 50 năm gắn bó với nghề dệt chiếu. Hiện bà là một trong số ít những người ở làng chiếu Định Yên vẫn dệt chiếu theo phương pháp thủ công. Nghề dệt chiếu không quá khó, nhưng lại khá vất vả vì phải trải qua nhiều công đoạn như cắt, phơi, nhuộm và dệt. Để có một chiếc chiếu đẹp và bền thì trước tiên phải chọn nguyên liệu là cây lác thật già, sau đó chọn lựa chiều dài của lác phù hợp với khổ chiếu cần dệt. Khi dệt chiếu, cần 2 người cùng làm, thông thường khi căng đai xong thì người thợ chính sẽ ngồi lên khung, người thứ hai luồn từng sợi lác vào khuôn và người thợ chính sẽ dùng sức lực dập mạnh vào lác để kết chặt lác vào nhau. Động tác dập phải dứt khoát, đủ độ mạnh để lác thẳng hàng, không xếp chồng lên nhau dẫn đến gãy lọn.
Có tận mắt chứng kiến quy trình mới thấy tay nghề của người thợ rất quan trọng, phải đan thế nào để chiếu vừa khít, đều và có độ bền. Bên cạnh việc thay đổi kĩ thuật dệt, mẫu mã đa dạng, nhờ có các hợp tác xã chiếu và tổ hợp tác dệt chiếu nên bà con không còn phải lo lắng nhiều về đầu ra của sản phẩm.
Được biết, hiện làng chiếu Định Yên có 431 hộ làm nghề dệt chiếu. Hằng năm, làng nghề sản xuất và cung cấp ra thị trường trên 1,3 triệu chiếc chiếu các loại, với tổng doanh thu khoảng 80 tỉ đồng, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho gần 3.800 hộ dân sản xuất, buôn bán, dịch vụ. Ngoài những hộ dệt truyền thống bằng khung dệt, tại làng chiếu Định Yên đã thành lập được một HTX và ba tổ hợp sản xuất, tiêu thụ chiếu, thu hút gần chục nghìn lao động nhàn rỗi ở địa phương và những vùng lân cận có việc làm, cho thu nhập ổn định.
Hiện, làng chiếu Định Yên không chỉ phát triển nghề truyền thống mà còn trở thành một điểm tham quan du lịch tìm hiểu về văn hoá làng nghề hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Sản xuất khô, mắm phục vụ Tết
Trong thời tiết se lạnh của những tháng giáp Tết, đến với làng nghề sản xuất khô, mắm phường An Lạc, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp dễ dàng bắt gặp hình ảnh các giàn phơi cá bằng tre nứa được dựng lên hai bên đường với mùi hương đặc trưng của khô cá lóc và mắm. Ông Trần Văn Á, 60 tuổi chủ cơ sở khô cá lóc Út Á cho biết: “Hiện tại, cơ sở đang tăng cường sản xuất các sản phẩm khô, mắm để phục vụ thị trường Tết Nguyên đán. Mỗi ngày, cơ sở của ông tiêu thụ khoảng 1 tấn cá lóc nguyên liệu để làm khô”.
Để có sản phẩm khô cá lóc dẻo, dai và thơm ngon, yếu tố quan trọng nhất chính là chọn được cá lóc nguyên liệu đạt chuẩn, với trọng lượng từ 900gram - 1kg. Bên cạnh đó, công đoạn chế biến và làm sạch cũng rất quan trọng. Đặc biệt là khâu phơi sấy, nếu khô phơi thiếu nắng thì sản phẩm sẽ dễ bị hư và thời gian sử dụng không được lâu. Thông thường, khô chỉ cần phơi 3 nắng là đạt yêu cầu.
Thời điểm này, khi các cơ sở tăng gia sản xuất thì đây còn là cơ hội giúp các lao động tại địa phương kiếm thêm nguồn thu nhập. Là nhân công theo nghề sản xuất khô cá lóc, bà Nguyễn Thị Lúa, ở phường An Lạc, cho biết: “Mấy ngày này, để chuẩn bị cho vụ khô Tết, trung bình mỗi lao động gia công khoảng 200kg cá lóc nguyên liệu để làm khô. Nghề này tuy hơi vất vả nhưng thu nhập ổn định, khoảng 150.000 - 200.000 đồng/người/ngày”.
Còn nghề làm mắm cá chốt cũng đang tất bật để cung ứng sản phẩm cho thị trường. Để làm mắm chuẩn bị Tết, mỗi cơ sở thu mua hơn 10 tấn cá/ngày để chế biến. Mỗi nhân công sẽ đảm nhận từng khâu riêng biệt như: Cắt đầu, vệ sinh ruột cá, xẻ cá... Theo bà Bùi Thị Sàng, 60 tuổi, chủ vựa mắm cá chốt khóm Sở Thượng, phường An Lạc, năm nay nước lũ về ít nên việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu sản xuất khá vất vả, cơ sở phải thu mua thêm tại một số tỉnh lân cận để bảo đảm nguồn hàng cho thị trường Tết. Vì nguồn cá khan hiếm nên giá cá chốt nguyên liệu tăng khoảng 4.000 đồng/kg so với năm trước. Theo đó, giá mắm cá chốt thành phẩm là 60.000 - 70.000 đồng/kg, tăng khoảng 10% so với năm trước.
Nhằm giúp làng nghề làm khô, mắm phát triển, chính quyền địa phương có những định hướng quy hoạch mở rộng làng nghề. Bên cạnh đó, còn hỗ trợ làng nghề trong việc giới thiệu, quảng bá sản phẩm, tổ chức nhiều cuộc tập huấn về kiến thức an toàn thực phẩm cho các cơ sở sản xuất... góp phần nâng tầm giá trị sản phẩm.