Thân phụ của ông là Tướng công Ngô Miễn, từng dẫn 10 họ từ Kinh Bắc xuống khai hoang tại vùng Sơn Nam. Qua nhiều năm vất vả, ông cùng bà con 10 họ khai hoang, lập nên được một miền quê trải dài từ Xuân Thủy, Xuân Bảng xuống tận miền biển Xuân Dương, nay thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, ông theo triều đình Nhà Hồ chống quân Minh xâm lược. Cuộc kháng chiến không thành công, ông quyết không đầu hàng kẻ thù, cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh nhảy xuống cửa biển Kỳ La tự vẫn. Để tưởng nhớ công lao của ông bà, tại quê hương ông, các thôn vùng Kinh Bắc, nay là các thôn Xuân Mai, Xuân Bến, Xuân Phương, Xuân Thượng, phường Phúc Thắng (Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) và những nơi ông khai hoang thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định đều lập đền thờ và các đền đó đều đã được nhà nước xếp hạng Di tích quốc gia.
Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Hằng, khi ngài Ngô Miễn đi theo triều đình nhà Hồ chống quân Minh xâm lược, để lánh nạn, bà đưa hai con về sống tại quê ngoại ở trang Vỹ Nhuế, nay là xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Bà dạy con lòng trung quân, ái quốc, sống lương thiện, luôn cứu giúp người nghèo khó. Lúc bà mất, dân địa phương lập bàn thờ tại phủ Vỹ Nhuế.
|
Lễ hội Đền Tướng Loát |
Tướng công Ngô Thế Lưu là em ruột của ngài Ngô Miễn đi theo cuộc kháng chiến chống quân Minh. Trong trận huyết chiến giữ thành Diễn Châu, ông có nhiệm vụ chặn quân địch để quân ta rút vào đàng trong, khi thành bị thất thủ, ông phá vòng vây chạy về phía Bắc. Khi gần tới trang Vỹ Nhuế ông gặp toán quân giặc đi tuần ven sông, bèn giao chiến và chém được đầu tướng giặc treo lên cổ ngựa đưa về. Bị trọng thương, khi về tới trang Vỹ Nhuế vì vết thương quá nặng ông mất ngày 6 tháng Giêng năm 1413. Dân địa phương lập miếu thờ đề ghi nhớ công lao của ông. Khu miếu thờ gọi là Quán Mãnh, thuộc làng Tướng Loát. Hằng năm, vào ngày 6 tháng Giêng, dân thôn Tướng Loát lên tế tại Mãnh Miếu, gọi là lễ "vọng tổ".
Sinh thời, Tướng công Ngô Quý Duật là người thông minh, lanh lợi. Sinh ra giữa lúc đất nước có nhiều biến loạn lớn, khi quân Minh sang xâm lược, tàn phá đất nước và nhất là khi Thân phụ và Thúc phụ hi sinh tại chiến trường, ông quyết chí học tập, rèn luyện, chờ thời trả nợ nước, thù nhà. Năm 1409 ông cùng 28 gia nhân theo nhà vua chống quân Minh xâm lược, được triều đình trao chức Tham tán Nhung vụ. Ông đã góp nhiều công lao và mưu lược giúp cho cuộc kháng chiến chống quân Minh thu nhiều thắng lợi. Ông đã được nhà vua trao Quốc tính (họ của nhà vua) và cho giữ chức Chu Sư Đại Tướng (tướng chỉ huy thủy quân), năm đó ông mới tròn 21 tuổi.
Bị thất bại nặng nề, quân Minh tăng viện với lực lượng khổng lồ. Do lực lượng quá chênh lệch và phương tiện chiến tranh thiếu thốn, nên cuộc kháng chiến không thành công. Ông tìm đường về quê chờ thời phục quốc, khi về tới trang Vỹ Nhuế việc đầu tiên ông nghĩ tới là triệu tập dân giúp họ quai đê, lấn biển, làm ra lương thực, thực phẩm. Ông triệu tập được hơn 200 hộ và chia thành 5 khu: Tướng Loát, Bình Điền, Thôi Ngôi, Kim Tổng, Ngọc Chấn, cung cấp quân lương và huấn luyện binh sĩ cho cuộc kháng chiến của Lê Lợi sau này.
Nhớ ơn công đức của ông, dân địa phương đã lập miếu thờ. Mười năm sau khi ông mất (1480) khi vua Lê kinh lí, vào thăm đền, xét công đức của ông, nhà vua lệnh phong thần cho ông, là "Chương Đức Đại Vương" nghĩa là vị thần có công đức lớn. Cấp ruộng cho dân để tiện việc thờ phụng. Các đời vua sau có 9 đạo sắc phong thần cho ngài.
Bà Ngô Ái Thường, em gái ngài Ngô Quý Duật có công giúp anh quai đê, lấn biển và lập nên làng Bình Điền (nay là thôn Hạc Bổng, xã Yên Trị, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Năm 1480, vua Lê Thánh Tôn phong thần cho bà là "Uy Minh Đại Vương". Từ đó, hằng năm làng Hạc Bổng và làng Tướng Loát có lệ rước thần vào các ngày 8, 9, 10 tháng Giêng, tổ chức thăm viếng nhau rất trang trọng. Ngày 13/9/1993 đền thờ Chu Sư Đại tướng đã được cấp bằng Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Nguyễn Văn Khuông