13:30 | 02/03/2021 In bài biết
Từ xa xưa, trạng thái sinh lí và bệnh lí của đường tiêu hoá đã được y học cổ truyền lưu tâm nghiên cứu. Trong hệ thống cấu trúc - chức năng của cơ thể mà y học cổ truyền gọi là Tạng tượng, tì và vị là hai cơ quan có nhiều điểm gần gũi nhất với hệ thống đường tiêu hoá của y học hiện đại.
Vị được sách thuốc cổ mô tả là một cơ quan rỗng, trên tiếp với thực quản, dưới thông với tiểu trường, miệng trên gọi là “bí môn”, miệng dưới gọi là “u môn”. Bí môn còn gọi là “thượng quản” và u môn còn gọi là “hạ quản”, cả ba vùng gọi là “vị quản”. Thức ăn từ miệng qua thực quản rồi vào vị, được vị làm chín nhừ, cho nên cổ nhân gọi vị là “đại thượng”, là cái kho lớn, cái “bể chứa đồ ăn”.
Tì là một cơ quan đặc, nằm bên trái của vị có chức năng hấp thu và vận chuyển chất dinh dưỡng, y học cổ truyền gọi là có công năng vận hoá. Tì và vị hợp tác với nhau để hoàn thành chức năng tiêu hoá, hấp thu thức ăn và vận chuyển các chất dinh dưỡng. Tì vị được quy nạp theo hành “Thổ” trong hệ thống ngũ hành (mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ) của triết học cổ đại phương Đông. “Thổ” là mẹ đẻ ra vạn vật cũng giống như tì vị có chức năng hấp thu, chuyển vận chất dinh dưỡng để nuôi các cơ quan tạng phủ khác trong cơ thể. Vì vậy, vai trò của tì vị trong hệ thống Tạng tượng của y học cổ truyền là đặc biệt quan trọng.
Trong lịch sử của y học cổ truyền, nhiều y gia đã rất chú trọng vào tì vị khi chữa bệnh, dần dần hình thành một trường phái học thuật nổi tiếng gọi là trường phái “Bổ thổ” với học thuyết “Tì vị” mà đại diện lỗi lạc là Lí Cảo, hay còn gọi là Lý Đông Viên (1180 - 1251). Ông là một trong bốn danh y đời Kim, Nguyên ở Trung Quốc, là người đặt cơ sở cho học thuyết “Tì vị” của y học cổ truyền. Trên cơ sở lí luận “hữu vị khí tắc sinh, vô vị khí tắc tử” (còn vị khí thì sống, mất vị khí thì chết) của y thư kinh điển Nội Kinh, ông cho rằng: Trong ngũ tạng lục phủ, tì vị là tối quan trọng đối với hoạt động sinh lí của cơ thể. Từ đó ông đề xuất chủ trương “nội thương tì vị, bách bệnh do sinh” (trăm bệnh đều do tì vị bị tổn thương), đồng thời ông viết cuốn “Tì vị luận” để truyền bá học thuyết của mình. Tư tưởng chủ đạo của ông là: “Thổ vi vạn vật chi mẫu, tì vị sinh hoá chi nguyên” (đất là mẹ của vạn vật, tì vị là gốc của sinh hoá). Vì vậy, khi trị bệnh ông chủ trương “ôn bổ tì vị” và đã chế ra phương thuốc trứ danh “Bổ trung ích khí thang” còn lưu truyền đến ngày nay. Học thuyết “Tì vị” có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của y học cổ truyền.
Vậy thì, tì và vị trong tạng tượng của y học cổ truyền có phải chỉ là cái lá lách và dạ dày trong giải phẫu của y học hiện đại? Trên thực tế, những kiến thức về giải phẫu đã được đề cập rất sớm trong các y thư cổ như “Tố vấn”. “Linh khu”. Hải Thượng Lãn Ông trong sách “Y gia quân miện” cũng đã viết khá nhiều kiến thức về giải phẫu, thậm chí ông còn vẽ lại sơ đồ giải phẫu cơ thể con người, được gọi là “nội cảnh đồ”. Thế nhưng học thuyết “Tạng tượng” nói chung và tì vị nói riêng lại không hoàn toàn dựa vào giải phẫu học, nó được xây dựng dựa trên hai quan điểm lớn của y học cổ truyền là “nhân thể là một chỉnh thể” (cơ thể con người là một khối thống nhất) và “thiên nhân hợp nhất” (con người và hoàn cảnh bên ngoài là một thể thống nhất). Theo các quan niệm này, y học cổ truyền không phân chia giải phẫu học và sinh lí học thành hai bộ phận riêng lẻ mà kết hợp chúng thành một bộ phận giải phẫu - sinh lí học gọi là Tạng tượng.
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy: cái gọi là “tì” thực chất là một đơn vị tổng hợp chức năng của nhiều hệ thống trong đó lấy hệ thống tiêu hoá làm chủ. Trên những bệnh nhân tì hư theo quan niệm của y học cổ truyền, kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt tính của nhiều men như amylase nước bọt, amylase tuỵ, pepsin, tripsin... có sự suy giảm rõ rệt so với nhóm người bình thường. Mặt khác, quá trình vận động và hấp thu của hệ tiêu hoá cũng bị rối loạn, cơ trơn ở dạ dày và ruột tăng trương lực rõ rệt, hệ số hấp thu giảm thấp. Những nghiên cứu về trạng thái của hệ thần kinh thực vật trên bệnh nhân tì hư (có nhóm đối chứng) cho thấy: chức năng hệ thống này cũng bị rối loạn, trong đó trương lực thần kinh giao cảm giảm, phó giao cảm tăng, năng lực đáp ứng của cả hai đều suy giảm rõ rệt. Về mặt miễn dịch, ở những bệnh nhân tì hư có biểu hiện suy giảm cả chức năng miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể. Điều này chứng minh nhận định của Trương Trọng Cảnh, y gia lỗi lạc đời Đông Hán (Trung Quốc): “Tứ lí tì vượng bất thụ tà” (Bốn mùa tì khoẻ mạnh thì bệnh tà không xâm nhập được), nghĩa là tì có quan hệ rất mật thiết với “chính khí”, mà “chính khí” và chức năng của hệ thống miễn dịch theo y học hiện đại có sự tương đồng sâu sắc trên nhiều bình diện. Đối với chức năng nội tiết, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy: ở các bệnh nhân được coi là tì hư theo y học cổ truyền, nồng độ các nội tiết tố của tuyến giáp như T3 và T4, tuyến thượng thận, tuyến tụy... cũng có những thay đổi đáng kể so với nhóm chứng.
Hiện nay, vấn đề khách quan hóa, quy phạm hoá trong chẩn đoán theo biện chứng của y học cổ truyền là hết sức cần thiết. Tuy còn nhiều vấn đề chưa thống nhất, nhưng có thể nói các nhà nghiên cứu về y học cổ truyền ở Trung Quốc đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về vấn đề này. Chỉ tính riêng kết quả nghiên cứu về bản chất của “tì” người ta đã đưa ra được không dưới 50 chỉ tiêu có tính khách quan rất cao. Như vậy, cái gọi là “tì vị” trong y học cổ truyền có nội dung phong phú hơn rất nhiều so với dạ dày và lá lách theo giải phẫu và sinh lí học của y học hiện đại. Như trên đã phân tích, thực chất đây là một bộ phận tổng hợp nhiều chức năng của nhiều hệ thống trong cơ thể, trong đó lấy hệ tiêu hoá làm chủ. Theo đó, các khái niệm trong chẩn đoán và điều trị đối với tì vị trong y học cổ truyền cũng có ý nghĩa rất khác so với y học hiện đại.
BS Hoàng Khánh Toàn
TẠP CHÍ NGÀY MỚI ONLINE
Hội Người cao tuổi Việt Nam
Tổng biên tập: Lê Quang
Giấy phép hoạt động báo chí số 47/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 5/2/2020.
Liên hệ: Tòa soạn
Đường dẫn bài viết: https://ngaymoionline.com.vn/y-hoc-co-truyen-quan-niem-ve-ti-vi-nhu-the-nao-22317.html