Thì ra cuối năm 1970, tôi đang ở đơn vị trinh sát cùng với Chiến thì được điều về đơn vị khác. Thế là chúng tôi xa nhau từ đấy. Nhận ra nhau mừng vui khôn tả. Tôi kể cho Chiến về những năm sau đó chiến đấu ra sao. Còn Chiến thuật lại cho tôi những tháng năm ở trinh sát…
Người chiến sĩ trinh sát đi trước để chuẩn bị cho những trận đánh. Tuy thầm lặng nhưng lại ác liệt gian khổ vô cùng. Vào căn cứ của Mỹ để trinh sát. Có khi bọn lính đi tuần quanh căn cứ, chúng dừng lại và…tè vào người. May chúng không phát hiện ra.
Ngày nhập ngũ, Chiến mới 21 tuổi, cô Yên người yêu mới 17 tuổi cùng làng. Đó là ngôi làng nằm cạnh con sông Đáy nước trong xanh thơ mộng như một bức tranh thủy mặc. Lúc chia tay, Yên tặng Chiến chiếc khăn thêu đôi chim bồ câu làm tin, hẹn ngày trở lại. “Em sẽ đợi anh về. Em coi cha mẹ anh như cha mẹ em. Yên tâm anh nhé”. Họ cũng chỉ vội vàng gửi lại cho nhau nụ hôn đầu đời trước lúc chia li trên bãi sông quê.
|
Minh họa: Trần Nhương |
Mỗi năm cũng nhận của nàng mấy lá thư. Lời lẽ vẫn mặn nồng như ngày mới chia tay. Mẹ viết thư cũng khen Yên ngoan nết và chăm chỉ công việc đồng áng, trồng dâu nuôi tằm. “Con bé cũng ngoan và đảm đang lắm, còn tham gia dân quân ở tiểu đội trực chiến bắn máy bay Mỹ nữa”.
Cuối năm 1974, trong một lần đi làm nhiệm vụ - Chiến kể - Vào trinh sát một căn cứ lính thủy đánh bộ. Đêm vào trinh sát, ngày ra nhà một cở sở tá túc, vẽ sơ đồ đã nạp vào “bộ nhớ”. Sau hơn một tuần thì xong việc. Trên đường về hậu cứ, bị quả pháo 105 bắn vu vơ vào đường mòn. Bị nó tiện một cẳng chân, và một số mảnh vào phần mềm ở bụng, ở tay và… bất tỉnh. Được đồng đội đưa về tuyến sau điều trị.
- Thế là mình bị “loại khỏi vòng chiến đấu”. Rồi đơn vị cho ra Bắc. Phải cưa trên đùi.
Mặc cảm với thương tật, là gánh nặng của gia đình và người yêu. Nên từ ngày bị thương, Chiến chẳng thư từ cho gia đình và cả Yên nữa. Ở Đoàn an dưỡng, Chiến dùng tay trái viết thư về cho Yên rằng: “Anh là Thắng, bạn cùng đơn vị với Chiến. Định về quê Yên, nhưng anh bị thương nặng nên không về được. Còn Thắng trước đó cũng bị thương rất nặng. Đơn vị cho về tuyến sau điều trị, từ đấy chúng tôi mất tin tức của nhau. Anh viết thư và hỏi em, anh Chiến đã về chưa? Cho anh biết tin nhé”.
Yên nhận được thư thì mừng lắm, tay run run bóc thư ra xem. Đọc chưa trọn vẹn bức thư thì cô hoa mắt rơi lá thư xuống đất, nỗi buồn ập đến. Vì hòa bình thống nhất đã lâu mà không có tin tức gì về người yêu. Yên viết thư cho Thắng nói về gia cảnh. Và để Thắng biết là chẳng có tin tức gì về Chiến. Cha mẹ hai bên và em vẫn chờ vẫn đợi.
Thư sau viết tiếp:
“Em ạ, ngày các anh cùng đơn vị, Chiến có tâm sự với anh rằng: “Nếu mình có hi sinh, cậu tin về cho cha mẹ mình và Yên nữa, khuyên Yên đi xây dựng gia đình, chứ đừng để phí tuổi xanh”. Bây giờ không có tin tức gì, chắc Chiến đã hi sinh rồi. Còn đơn vị không có thông báo gì cho gia đình, chắc có sự trục trặc gì thôi, chẳng hạn như mất tích… nên chưa có cơ sở để thông báo… anh chắc là như vậy…”.
Yên biết được những thông tin như vậy cũng buồn lắm. Hàng tháng ròng, đêm nằm nàng khóc thầm ướt đầm gối lẻ. Nhớ ngày chia tay người yêu vào Nam chiến đấu, cô phấp phỏng lo âu. Cô cũng vào hàng “Hoa khôi” của làng. Và xóm làng bây giờ con gái, đàn bà chiếm số đông. Nam giới chỉ những anh chàng “Khoèo chân hở rốn” không đủ tiêu chuẩn cầm súng mới ở lại quê nhà. Bởi vậy, họ tha hồ lựa chọn. Và Yên cũng là đích ngắm của những chàng trai trong làng ngoài xã.
Cha mẹ khuyên rằng chiến đấu ngoài mặt trận trước hòn tên mũi đạn kẻ thù biết đâu mà lường. Rồi lâu lắm cũng chẳng thấy nó thư từ gì cả, biết đâu… Rồi các chị em cùng trang lứa nhiều người đã tay bế tay bồng… khuyên thôi đừng chờ nữa, con gái có thì. Rồi đám thanh niên chưa vợ thì tìm mọi cơ hội tấn công trực diện và gián tiếp theo con đường mai mối khuyên nhủ với những lời như rót mật vào tai.
Thế rồi, đằng đẵng tháng đợi năm chờ, buồn thương héo hắt. Nhiều người bảo phải quên, cũng đợi cũng chờ khóc khô dòng lệ còn gì, nếu còn sống thì đã về rồi. Đấy làng mình, xã mình những người ra đi, còn sống đã về cả rồi dù nhiều người mang thương tật. Đây thằng Chiến có tin tức gì đâu, hòa bình cũng đã hơn năm rồi, nếu bận công tác thì phải có thư từ về chứ. Hay có vợ con đâu đó mà chưa dám vác cái mặt về v.v… Đằng này thì biệt vô âm tín, chờ đợi gì nữa em. Xuân đã cạn ngày em ạ! Vậy nên em đành bước sang ngang.
*
* *
Hôm ấy là một ngày cuối Đông, mây màu chì vần vũ cả bầu trời làng Hạ. Ngôi làng nhỏ bé hiền hòa bên bờ con sông Đáy nước trong xanh lững lờ trôi. Dưới bến sông có con đò nhỏ cắm sào lặng lẽ như muốn chờ đợi ai qua sông. Thỉnh thoảng có cụm bèo tây lững lờ trôi theo dòng nước.
Ngôi làng nhỏ bé bên kia sông có tiếng pháo nổ ran trên đường làng. Một đám cưới đang đi xuôi trên con đê tiễn cô dâu về nhà chồng. Đám cưới sau chiến tranh thật nhẹ nhàng đơn giản. Không có xe hoa, không có xe hơi, xe máy đón rước như bây giờ.
Anh thương binh tay chống nạng, ba lô con cóc lép xẹp trên lưng. Từng bước, từng bước khó nhọc xuống bến sông. Con đò vẫn cắm sào đợi khách. Quẳng ba lô trên bãi cát, người lính khó nhọc ngồi xuống vạt cỏ chờ người lái đò. Phì phèo điếu thuốc lá trên môi trầm tư suy nghĩ.
Trên bãi sông có những luống cải ngồng đang nở hoa vàng rực rỡ. Anh nhớ lại ngày chia tay, hai người cũng đi qua những vạt cải đang nở hoa vàng rực dưới nắng ban mai; qua những bãi dâu mướt xanh ven đê. Những kỉ niệm trước khi vào chiến trường sao mà đẹp thế…
Còn nay, không biết giờ này cha mẹ làm gì, các em ở đâu? Còn Yên chắc cũng yên bề gia thất, nếu thế cũng mừng cho em! Làng quê ta đây rồi, chỉ mấy phút, vài trăm bước chân là về tới nhà. Bởi chưng cách trở đò giang phải chờ sốt cả ruột. Bến sông xưa vẫn còn đó, lời ước hẹn lúc chia tay hãy còn đây như mới ngày nào gần lắm.
Anh bồi hồi chờ đợi người lái đò. Ngước lên nhìn sang bên sông. Ơ kìa, có một đám cưới đang đi xuôi theo con đê làng Hạ. Cái làng nhỏ bé ven sông đã để lại trong anh bao kỉ niệm của tuổi ấu thơ. Anh biết bơi và bơi giỏi cũng từ con sông quê hương này đây. Bao năm xa cách nay trở lại quê nhà, lại gặp đám cưới, mùa cưới mà. Giá không phải chờ đò lâu, biết đâu đã có mặt gặp đám cưới, gặp bà con xóm làng có phải vui biết mấy…
Đang suy nghĩ mông lung, anh giật mình nghe tiếng ai đằng sau:
- Chú bộ đội sang đò phải không.
- Vâng ạ - Anh ngoái đầu lại - Cháu chờ đò lâu quá, bác cũng sang sông ạ?
- À, sáng sớm vắng khách, tôi tạt vào chỗ ông bạn làm cốc nước chè cho ấm bụng. Nào để tôi đỡ anh xuống đò. Ông đỡ người lính đứng lên. Và sững sờ nhìn sâu vào mắt anh rồi thốt lên.
- Ôi! Thằng Chiến, có đúng là thằng Chiến không? Sao bảo là hi sinh rồi? Sao bây giờ mới vác cái mặt về đây? Tại sao hả? - Ông hỏi dồn dập, Chiến chẳng kịp trả lời.
- Chuyện dài lắm, lúc nào cháu kể bác nghe.
Ông lái đò chẳng vội làm gì, nhởn nha khua mái chèo, khuấy động những cụm bèo đang trôi theo dòng, rồi nói:
- Con ơi, sao bây giờ mới về. Cái cô Yên nó chờ nó đợi con bao năm nay. Nhưng bảo con đã hi sinh. Nó dùng dằng mãi, nay mới chịu đi lấy chồng. Cái đám cưới vừa đi xuôi xuống làng Đặng, cháu có thấy không? Có hả. Đấy là đám cưới con Yên đấy. Rõ khổ, thương cho cả hai đứa chúng mày. Sao lại oái oăm như vậy…?
- Bác bảo sao? Đám cưới ai hả bác? Anh lặng người đi, mặt ngơ ngác. Quay mặt tránh ánh mắt của ông lái đò. Tay run run đánh rơi điếu thuốc đang hút xuống dòng nước và lặng lẽ đưa tay áo lên thấm những giọt nước mắt lã chã rơi…
Truyện ngắn của Phạm Bá Dực