“Thư viện” lão Học
Tin tức 03/05/2019 15:50
Năm 1975, chiến tranh kết thúc, lão được xuất ngũ. Ít năm sau, khi tuổi đã cao, không còn đi làm được cái nương, cái rẫy nữa, lão đã nghĩ đến việc chuyển đổi ngành nghề, để kiếm ăn trong những năm cuối cuộc đời. May sao, năm vừa rồi, trong chương trình “xây dựng nông thôn mới”, con đường làng được mở rộng và bê tông hóa qua hiên nhà lão. Lão mừng như bắt được của rồi quyết định mở một cái quán cắt tóc.
Từ ngoài đường nhìn vào, bên phải là nơi cắt tóc, cái ghế xoay tự tạo có thể dựng ngồi hoặc duỗi ra cho khách ngả lưng thoải mái trước cái gương soi cỡ lớn. Phía bên trái là một giá gỗ lớn sơn màu nâu nhạt chứa đầy những sách báo. Cái quán của lão xây bằng gạch chỉ, lợp ngói, được lão bài trí rất gọn gàng.
Minh họa Trần Nhương |
Tôi đã là khách “chung thân” của lão. Cứ “đến hẹn lại lên” tôi lại vào cắt tóc ở cái quán này. Lão hơn tôi gần chục tuổi nên chúng tôi là bạn vong niên với nhau. Chẳng cái gì lão giấu tôi cả. Một lần nghe lão kể: Mồ côi cha mẹ từ hồi nhỏ, về ở với ông bà nội, được ông bà nội nuôi dạy chu đáo lại còn đón một ông giáo già về làm gia sư. Ông giáo có tiếng là người hay chữ trong vùng, uyên thâm văn học. Học trò (tức lão Học) thì sáng dạ, thông minh nên được cụ giáo yêu quý, tin cậy. Lão ham học, ham đọc và yêu sách từ đó.
Nhìn trên giá sách ai cũng khen lão chịu khó thu thập cất giữ. Có cuốn đã ố vàng, sờn gáy, lão phải dán lại từng tờ hoặc đem đi hiệu đóng lại. Số sách này phần lớn là truyện. Lão bảo, trước ngày đi bộ đội, lão đã “bàn giao” cho bà nội lão giữ hộ. Hồi chiến tranh phá hoại, mỗi lần đi sơ tán, bà nội lão không quên đem những cuốn sách quý của lão đi theo. Lão nói với tôi: Lão trưởng thành được như ngày nay phần lớn cũng là nhờ đọc sách. Sách vừa là bạn vừa là thầy của lão.
Những năm gần đây, lão còn mua thêm mấy cuốn tạp chí văn học và một số sách truyện, truyện tranh thiếu nhi. Còn báo, lão chỉ mua “Báo cuối tuần, cuối tháng”, còn báo hằng ngày thì được mấy anh cán bộ ở các cơ quan huyện thường xuyên đến “thư viện” đọc trao đổi rồi “kính biếu” luôn.
Một nguồn cung cấp nữa cũng rất quan trọng, đó là mấy bà “đồng nát”. Theo “hợp đồng” mỗi khi mua được những cuốn sách cũ hay là các bà bán lại cho lão chỉ lấy bằng giá gốc. Nghe đâu, lão sẽ đóng thêm mấy giá nữa và sắm thêm mấy chiếc ghế băng mới đủ chỗ cho “bạn đọc” ngồi.
Những lúc rảnh rỗi, không có khách lão lại cùng với tôi làm vài ván cờ, vài chén nước chè rồi chuyện đông, tây, kim, cổ đủ cả.
Lão nói nhiều về sách, triết lí về sách nhiều lắm. Nào là sách báo là tài sản vô giá, là “khuôn vàng, thước ngọc”. Cụ Mác đã từng nói: “Sách là nô lệ của tôi nhưng cũng là người thầy của tôi”. Cụ Lê nin thì: “Không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản”. Người Nga có câu: “Trường học cho tuổi trẻ, tủ sách cho cuộc đời”. Người Trung Quốc thì: “Ba đời đọc sách ắt có đại phu”. Với ca dao Việt Nam:
“Yêu con sách chất đầy nhà/ Ghét con ra chợ mua quà cho con…”.
Trong chiến dịch đường 9 - Nam Lào một quả đạn pháo của Mỹ nổ ngay cạnh công sự của lão. Một vài chiến sĩ hi sinh. Còn lão thì bị sức ép, máu mồm, máu mũi trào ra và một vài vết thương trên người. Sau 3 tháng điều trị, vết thương đã lành, lão lại xin về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Giấy chứng nhận thương tật lão vẫn còn giữ đầy đủ: “Nông Văn Học, quê quán Lạng Sơn…” Đi làm thủ tục để hưởng chế độ chắc chẳng khó gì. Nhiều người khuyên, nhưng lần nào lão cũng bảo: “Bao đồng đội hi sinh, mình còn được sống đến giờ là may mắn và hạnh phúc lắm rồi…”. Lão cứ khất lần khất lữa, cho đến hôm nay, lão vẫn chỉ là một cựu chiến binh bình thường sinh hoạt ở chi hội tôi. Bất giác, tôi lại nhớ đến gần đây trên báo chí có nêu một số trường hợp (hàng trăm người) tìm mọi cách chạy chọt để “lên hạng” thương binh. Thậm chí chẳng bị thương lần nào mà cũng có thẻ thương binh, lĩnh tiền của nhà nước mấy chục năm nay. Ông gọi những kẻ đó là “bọn khốn nạn”.
Đang cắt dở cái tóc cho một ông bạn già trong xóm thì cùng một lúc hai khách lạ từ xa đến… Lão tươi cười đon đả mời chào:
- Các bác chờ cho ít phút. Có báo mới đấy, nhiều tin hay lắm.
Hai vị khách nọ vui vẻ ngồi chờ và mải mê xem hết báo nọ đến báo kia mà không cảm thấy sốt ruột của kẻ ngồi chờ.
Tôi ngồi ở “phòng đọc” của lão được một lúc thì vợ lão đi lĩnh lương hưu về, nét mặt hớn hở nói với chồng: “Lương được tăng từ tháng này. Tôi được gần 3 triệu, ông được trên 3 triệu”. Đó là chưa kể “lương cắt tóc” mỗi tháng lão cũng được trên 1 triệu nữa. Mức thu nhập này ở nông thôn thế là cao, nhiều người ao ước.
Nay đã ở cái tuổi xế chiều, chỉ chuyên “cắt cao cạo sạch thì không hợp với bọn trẻ; chúng gọi quán lão là quán “Cụ khốt” là vì thế. Cắt tóc bây giờ cũng phải đổi mới, nghĩa là phải bắt kịp với thời thượng. Lão chịu với những mốt ấy. Tạng lão chỉ hợp với kiểu tóc của các cụ cao niên. Vì vậy khách trẻ đến quán lão cũng ngày càng thưa dần. Nhưng “thư viện” của lão thì không bao giờ vắng khách. Suốt ngày lão xởi lởi vui vẻ với “bạn đọc”. Những lúc rỗi rãi thì lại chén nước, ván cờ với mấy ông già ý hợp tâm đầu trong làng. Còn bà lão thì lúi húi với những việc không tên trong nhà, chẳng lúc nào được rảnh tay nhưng không bao giờ người ta thấy bà khó chịu về cái việc “mảng chơi” của lão. Lão cảm thấy thật hạnh phúc.
Quán cắt tóc giờ đã được mang thương hiệu “Thư viện lão Học”. Hằng ngày lão thấy vui vui vì đã làm được cái việc nâng cao dân trí, có ích cho đời - “Văn hóa đọc”
Truyện ngắn của Trường Thọ